Nguyễn Quang Vinh
Chương VIII
Hoàng đế nước Việt mang theo chín con thuyền chiến để hộ giá thuyền rồng sang Bắc triều. Đoàn thuyền rẽ nước mà tiến, thuận gió, thuận sóng, chẳng mấy ngày mà tới. Lần đi này, các quan đại thần chỉ thấy khác lạ, Bệ hạ lại cho vời quan chép sử theo cùng. Quan chép sử tên là Lý Vân, vốn tính cương trực, ngay thẳng, kiến thức thuộc loại đệ nhất thiên hạ. Vốn ngày ngày, mỗi khi rảnh rỗi, Bệ hạ vẫn thường đàm đạo với Lý Vân, có điều gì cần ghi lại cho hậu thế, Lý Vân cứ lựa chọn mà chép. Sử chép của Lý Vân lấy cái chính trực làm chủ, minh bạch, không vẽ vời, không hoa mỹ cũng không bóp méo. Nhưng chính sử đôi khi cũng không thể chép ra hết chính sử. Nên mới có chuyện, nhân chuyến đi cùng Bệ hạ, lênh đênh trên biển, chuyện to chuyện nhỏ nói mãi cũng hết, chuyện thế sự, quốc gia bàn mãi cũng cạn, nhân khi chỉ ngồi riêng với Bệ hạ. Lý Vân thưa:
-Bẩm Bệ hạ, có chuyện này thần muốn tâu với Người, không biết nên chăng?
Hoàng thượng cả cười:
-Khanh với ta xa lạ gì nữa, tính khí của khanh ta cũng đã tường, có điều gì cứ nói hết ra, không e ngại
Lý Vân vẫn dè chừng:
-Nhưng chuyện này, thần e Bệ hạ khi nghe xong, nhẹ thì nổi giận, nặng thì chém đầu thần nếu thần cố nói.
Hoàng thượng cười lớn:
-Lý Vân ơi là Lý Vân. Ta với các khanh coi nhau như máu mủ ruột rà, chuyện lớn chuyện bé đêm ngày đều tâm đầu ý hợp. Chung ý thì cùng gật gù thân ái, khác ý thì cùng tranh cãi đến cùng, trên dưới phân minh, rành rẽ, nào ta có ngăn cản các khanh điều gì đâu, ta cũng đã phạt ai nói năng chính trực, ngay thẳng chưa nào?
Lý Vân nói:
-Bẩm Bệ hạ, chuyện này nói trải lòng phân vân của thần cũng được mà như tấu trình với Bệ hạ cũng được. Là người được Bệ hạ giao phó việc chép sử cho muôn đời, thần không thể không nói.
Hoàng thượng ra chiều sốt ruột, phẩy tay:
-Ta cho phép khanh nói hết, đừng dấu trong lòng điều gì.
Lý Vân ngẫm nghĩ chốc lát rồi cất tiếng:
-Bẩm Bệ hạ. Theo sử của thần đã chép, Bệ hạ lên ngôi là vì Hoàng đế Lê Long Đĩnh chuyên quyền, bấn nát vì gái, vì rượu, vì đua đòi ăn chơi sa đọa, bỏ bê việc nước, ham hố nhục dục, khiến lòng dân trăm họ ca thán phẫn nộ. Lại trước đó, lời sấm có ở khắp nơi, hiện ra cả trên gốc cây, mặt đá, nước Việt sẽ xuất hiện một vị minh quân họ Lý là Người. Thiên hạ lại nghe khi hoàng đế Lê Long Đĩnh ốm đau kiệt quệ, chính anh em họ nhà Lý đã cho người thuốc độc chết để tiệm chiếm ngôi báu, đưa Bệ hạ lên ngôi Vua như hiện giờ, mọi chuyện đều có sự sắp đặt của Thiền sư Vạn Hạnh cả. Cơ nghiệp các Hoàng đế nối ngôi nhau là lẽ thường nhưng chỉ vì điều này mà đưa ra thiên hạ những cái xấu xa oan uổng cho Hoàng đế Lê Long Đĩnh e không hợp chính sử, làm tổn hại đến người thiên cổ mà đời sau mù mịt chính sử không biết đâu phải, đâu trái. Ý thần là muốn nói vậy, chính sử phải chép thành chính sử.
Hoàng thượng ôm vai Lý Vân:
-Lý Vân ơi Lý Vân. Điều khanh nói, nếu bệ hạ không phải ta mà người khác, lòng dạ hẹp hòi, tim gan ích kỷ, e khanh sẽ đầu lìa khỏi cổ. Khá khen cho khanh thẳng thắn nói hết ruột hết gan cái phân vân của thiên hạ. Những chuyện khanh nói rốt cuộc cũng chỉ là trong thâm cung bí sử. Giờ ta nói có cũng được, không cũng được. Khanh chỉ cần biết, ta nối ngôi nhưng làm cho nước Việt cường thịnh hơn, cũng vẫn tôn kính những bậc tiền bối, không làm gì hổ thẹn, thế là được rồi. Người chép sử cho quốc gia lấy cái cốt cách lớn lao làm căn cơ, không việc chi phải mất công đi vào tiểu tiết. Những tiểu tiết, như đồn, như thổi ấy kệ cho bọn văn nho làm văn, làm thơ, kệ cho thiên hạ nghi ngờ, bia miệng. Ta chỉ nói với khanh thế này thôi, khi hoàng đế Lê Long Đĩnh băng hà, nhất nhất trên dưới tôn ta lên nối nghiệp. Vậy thôi mà. Nếu trên dưới không một lòng, ta có làm bệ hạ được không, một mình Thiền sư Vạn Hạnh có dời non lấp bể được không?
Lý Vân nói:
-Nhưng thiền sư Vạn Hạnh cứ sắp đặt trong thiên hạ lời đồn thổi về những cái xấu xa vu khống cho hoàng đế Lê Long Đĩnh, thần e không thuận, có hại mà không có lợi
Hoàng thượng gật gù:
-Điều này ta có biết. Ta cũng không đồng tình. Ai cũng có xấu có tốt. Người Việt ta có câu, chín bỏ làm mười, nghĩa tử nghĩa tận, âu thì tha thứ cái không tốt, lưu giữ cái tốt của người đã khuất với hậu thế, há chẳng hơn sao?
Lý Vân nói:
-Bẩm, vậy nên thần mới nói hết với Bệ hạ, chính sử thần vẫn chép, mà những gì không thuộc chính sử nhưng thuộc dân gian cũng cho phép thần chép ra, sau con cháu khỏi cho rằng Bệ hạ cốt chép sử lợi cho mình mà mất đi sự khách quan, chính thực.
Hoàng thượng gật đầu:
-Khanh thấy có lợi cho nước thì cứ làm, đừng để kẻ phản nghịch lợi dụng là được. Nhưng hôm nay khanh nói chuyện này ra mà như không nói chuyện này, là để hàm ý nói với ta điều khác?
Lý Vân giật mình rồi cười:
-Bệ hạ quả anh minh.
Hoàng thượng nhìn vào mắt Lý Vân:
-Khanh hình như không mấy tin ta?
Lý Vân chắp tay:
-Bệ hạ nói thế là khép thần vào tội chết sao. Thần phụng mệnh Bệ hạ, lấy lòng tin làm đầu, không thể không tin mà phụng mệnh được
Hoàng thượng lại hỏi:
-Nếu vậy, khanh vẫn còn điều chi ray rứt muốn nói ra?
Lý Vân thổ lộ:
-Tất cả là ở chuyến đi này, thưa Bệ hạ.
Hoàng thượng cầm tay Lý Vân:
-Ta đang cần khanh nói về chuyến đi này của ta. Thực lòng, đi thì phải đi mà lòng ta bất an. Đi mà biết trước chuyến đi không hẳn là được Bắc triều nghênh tiếp mà hình như sau sự nghênh tiếp còn là sự dọa dẫm. Nếu ta khí khái, ngang ngạnh, coi trời bằng vung, thách thức, vỗ ngực cũng không được, mà nhún nhường, khép nép, hạ mình theo thứ bậc cũng không được. Các bậc tiên đế nước Việt đều đã phải đánh trả sự xâm lấn của các hoàng đế Bắc triều. Ta phận hậu thế, lại mới lên ngôi, ứng xử làm sao để nước Việt ngửa mặt nhìn thấy trời, nước lớn Bắc triều phải nể phục, lại không hổ thẹn với các nước lân bang, mà trăm họ trong nước thì hoan hỉ, vua tôi một lòng trên dưới.
Lý Vân cảm kích trước những lời châu ngọc phát ra từ ruột gan Bệ hạ:
-Bệ hạ nói ra những điều ấy khiến thần rất ngưỡng vọng. Chỉ có điều, vì sao Bệ hạ biết là Bắc triều đang rục rịch chuẩn bị xâm lược chiếm đảo của ta mà Bệ hạ vẫn sang cho họ nghênh đón? Ai không biết thì hoan hỉ vì chuyến đi bang giao có một không hai, ai hiểu thì nghĩ Bệ hạ nhụt chí chống Bắc triều, sang để cầu hòa, cầu yên, làm hèn đi cái chí giữ nước vốn có truyền thống lâu đời của người Việt ta, làm khác đi cái chí cao, dũng mạnh của các bậc tiền nhân trước đó. Như Hoàng đế Lê Long Đĩnh cũng từng nhiều phen lên ngựa xông pha chiến trận bảo vệ cương giới.
Hoàng thượng cười ha hả:
-Ta hiểu, ta hiểu ý khanh. Khá khen cho khanh thẳng thắn, chân thành, nói với ta những điều tâm huyết như thế là bậc trung thần. Vậy ý khanh thì sao? Ta nên đi hay không đi?
Lý Vân nói:
-Nên đi. Bệ hạ đi là đúng. Biết Bắc triều sắp xâm lược đất đai tổ tiên mà vẫn nhận lời sang nước họ theo lời mời mọc là bệ hạ cao kiến và dũng khí.
-Khanh nói tiếp đi
-Bẩm bệ hạ. Đi lần này, Bệ hạ nhất mực hoan hỉ, ép Bắc triều phải nói nhiều đến bang giao, đến hòa hiếu, có thế khi xảy ra việc Bắc triều xâm lược, ta càng có thế mạnh để loan báo với các nước lân bang về sự tráo trở, lá mặt lá trái của họ, bao vây cô lập họ về bang giao với các nước, làm họ phải thấy xẩu hổ.
-Khanh nói phải lắm
-Bệ hạ cũng phải khéo léo để lộ vài tin tức, kiểu như ta đã biết ý định của Bắc triều muốn chiếm đảo, muốn nhòm ngó thèm khát cái thứ nước lửa quý giá ngoài cương giới của ta. Bệ hạ cũng nhắm đích tới Lý Bật, đại thần nước Việt mà bán nước chạy theo Bắc triều, Bắc triều lại dùng Lý Bật để mưu toan đánh lại người Việt, làm vậy để hoàng đế Bắc triều cũng phải giật mình, như ông bà ta có câu: có tật giật mình, sinh ra nghi kỵ trong nội bộ để lộ tin cơ mật, sinh bất an, quyết đoán không mạnh, có khi nhờ vậy mà thu quân, thu binh, thu thuyền, bớt đi một cuộc binh đao với ta. Ta đang yếu, đang cần dưỡng sức dân, bớt một cuộc binh đao là quý.
-Khanh nói phải lắm
-Nhưng nếu Bắc triều ra ý dọa dẫm, o ép, Bệ hạ phải mạnh lời, mạnh tiếng, không ngại ngần tuyên bố chí khí nước Việt, muốn hòa hiếu với các nước lân bang nhưng cũng không nương tay với ai cố ý xâm lăng cướp đất. Bệ hạ làm được thế, lòng dân hoan hỉ, quan quân phấn chấn, binh sĩ nức lòng mà kẻ chép sử như thần cũng lấy đó viết lại cho hậu thế, đời đời con cháu biết được khí phách của Bệ hạ, dũng khí của Bệ hạ, cái mạnh mẽ muôn đời của người nước Việt.
Hoàng thượng đặt tay lên vai Lý Vân, hiện rõ sự ưng ý.
Lễ nghênh đón của hoàng đế Bắc triều dành cho hoàng đế nước Việt quả là hiếm có. Hoàng cung trang trí lộng lẫy. Cung nữ múa hát rắc hoa suốt dọc lối đi trong đại điện. Quân binh, thủy binh gươm giáo cung tên oai phong đứng chào. Lại có cả súng thần công khai hỏa nghênh tiếp. Lại có cả những thớt voi chiến nghênh tiếp. Lại có cả hàng trăm ngựa chiến phi nước đại bám theo đoàn ngựa xe chở hoàng thượng nước Việt. Ngay cả tiệc thết đãi cũng hiếm gặp. Những mâm thịt hổ còn nguyên thủ cấp, nhìn đã thấy ẩn chứa ý tứ. Đũa ngà bát ngọc. Sơn hào hải vị thôi thì không thiếu thứ gì Bắc triều có mà không mang tới. Hoàng cung lộng lẫy. Âm nhạc rộn ràng. Người phục dịch đi ra đi vào cung kính.
Hoàng thượng Bắc triều cười cười giã lã, nâng ly ngọc ngang mặt, cung kính:
-Hai nước chúng ta, nước to, nước nhỏ, nước giàu, nước nghèo không cần phân định, bang giao lấy chữ hiếu làm trọng, lấy chữ tình làm trọng, lấy chữ kính làm trọng, xin cạn ly này.
Hoàng thượng nước Việt cũng cung kính nâng ly đáp lời:
-Xin đa tạ sự nghệnh tiếp tưởng không thể sang trọng hơn nữa. Xin cạn ly này.
Hoàng thượng Bắc triều cạn hết ly rượu, lại nói:
-Bang giao hai nước, chuyện cũ có gì không hay xin bỏ qua, xin khép lại, nay cả ta và bệ hạ đều vừa nối ngôi, công việc trong nước bộn bề, sức dân đang mỏi, vậy nên lấy sự bang giao hữu hảo hai nước cho mở đường buôn bán, giao thiệp, giàu cùng giàu, vui cùng vui, lấy cái bắt tay, lời chào làm giao tiếp hàng ngày, chuyện binh đao, gây hấn nhau cho lui vào quá khứ. Nay Bệ hạ nước Việt sang thăm, ta và triều đình Bắc triều lấy làm hỉ hả, xin cùng nhau tay trong tay, cùng chung ý chung lời làm theo sáu chữ này: Hữu hảo, tương trợ, hòa hiếu.
Hoàng thượng nước Việt cung kính nói:
-Sáu chữ đó hay lắm, Bắc triều quả thật sâu sắc.
Hoàng thượng Bắc triều:
-Từ nay hai nước cứ lấy sáu chữ mà ta ban ra ấy mà làm theo, nhất nhất tuân thủ.
Hoàng thượng nước Việt:
-Bệ hạ nói hay lắm. Những chữ của Bệ hạ Bắc triều là dành cho trăm họ Bắc triều. Nước Việt ta cảm tạ thịnh ý nhưng xin không mang sáu chữ ấy về nước mình được.
Hoàng thượng Bắc triều đang cười chợt lặng đi vì bất ngờ.
Hoàng thượng nước Việt lại nói:
-Bắc triều của Bệ hạ rộng lớn, người đông, nước mạnh, hẳn còn là tấm gương cho các nước lân bang về hòa hiếu, về bao dung, về đức pháp. Nước Việt ở cạnh, tự hào có Bắc triều mạnh, mạnh mà có đạo, có đức, trăm họ khen ngợi, đó cũng là cái phúc lớn cho hai nước chúng ta.
Hoàng thượng Bắc triều gắng cười:
-Quá khen. Quá khen.
Hoàng thượng nước Việt lại nói:
-Người xưa nói, nước lớn mà đức bé thì dễ gây thù oán lân bang, với Bắc triều ta tin nước lớn mà đức Bệ hạ cũng lớn, vì thế nên dù ở cạnh Bắc triều, nước Việt bé, người Việt ít mà lòng vẫn yên là vậy.
Hoàng thượng Bắc triều gật gù:
-Quá khen. Quá khen.
Hoàng thượng nước Việt nói tiếp:
-Hai nước lân bang không giữ hòa hiếu mà để xảy ra binh đao thì thiên hạ dễ oán trách, sức mạnh sẽ yếu, các nước lân bang hẳn sẽ chê cười. Ta tin Bệ hạ không lấy binh đao thay lời, không lấy chiến tranh thay ý. Cương giới hai nước muôn năm bình yên, giao thương hai nước muôn đời thuận lợi, âu cũng là mơ ước của muôn dân trăm họ.
Hoàng thượng Bắc triều lại gật gù:
-Phải lắm. Phải lắm
Hoàng thượng nước Việt hạ giọng:
-Trên đường sang Bắc triều thăm thú, ta nghe đâu đó lao xao, rằng hình như trên biển đang rình rập bọn thảo khấu, cương giới ngoài đảo xa của nước Việt có vẻ không được yên ổn, cũng mong Bệ hạ vì quan hệ hai nước mà trợ giúp một tay, dẹp bọn thảo khấu, giữ trời yên biển lặng, đường biển yên thì giao thương hai nước cũng yên. Chỉ sợ tên Lý Bật phản loạn, chạy sang Bắc triều, nghe nói không được Bệ hạ nghênh đón nên phải thoát thân móc nối với lũ thảo khấu làm loạn trên biển, muốn cướp đảo vùng cương giới người Việt, ta cảm thấy muôn phần bất an, mong bệ hạ ra tay đặng giúp nước Việt giữ yên biên cương bờ cõi.
Hoàng thượng Bắc triều khựng lại, nụ cười trở nên méo mó nhưng cũng điềm tĩnh đáp từ:
-Hảo a. Hảo a. Ta hứa, ta hứa.
Nhạc réo rắt.
Ly cụng ly.
Cuộc tiệc mãi tới canh ba mới tàn.
Ruột gan Hoàng thượng Bắc triều như lửa đốt.
Hứa Văn phì phèo cái tẩu thuốc, đứng trên mạn con thuyền dẫn đầu, vẻ mặt hí hửng. Hắn tính, giờ này trong Hoàng cung, chắc hai hoàng thượng đang mải mê chuyện trò, chén thù chén tạc, lại nghe con hát, lại ngắm mỹ nữ. Lúc chia tay, Bệ hạ còn lưu luyến không nguôi. Lại còn hứa ban thưởng. Lại còn hứa giao thêm quyền bính. Hứa Văn đâu cần những thứ đó của Bệ hạ. Hứa Văn cần là cần chuyến đi này, nói công khai cũng được mà nói cơ mật cũng xong. Trong tay có thánh chỉ bệ hạ, thuyền đi không ai xét hỏi, tha hồ muốn làm gì làm. Không như cái thuở chỉ là dân buôn bán, đi đâu lo nơm nớp. Nay nhà buôn mà lại đại thần, đại thần lại chính nhà buôn. Hứa Văn ngửa mặt cười ha hả.
Hứa Văn ranh ma còn dốc hết vốn liếng, thuê cả đoàn thuyền của Nhật Bản theo cùng. Nước lửa lấy được, số cho thuyền vào cống nộp Bệ hạ lấy công, lấy thưởng, phần lớn nữa thì cho xuống thuyền Nhật Bản, cho chạy sang Nhật Bản bán riêng, lấy riêng. Đi một chuyến mà được cả công cả tiền, cả tiếng cả lực, hóa ra đời này e chỉ Hứa Văn làm được. Sau chuyến này, cứ đà ấy, thế ấy, đường ấy, Hứa Văn mang tiếp binh lực ra, ép lấy thêm mấy đảo nước Việt, chẳng mấy chốc mà giàu có. Chỉ có nhúm người Việt ngoài kia, vũ khí binh lực thuộc loại thấp kém, đọ sao được với binh khí vũ lực của Hứa Văn.
Lại nhớ đến Tiểu Tiểu. Nếu Tiểu Tiểu biết Hứa Văn còn lén lút hút nước lửa chuyển sang đội thuyền thuê của Nhật Bản để bán cho Nhật Bản, e Hoàng thượng tru di tam tộc. Nhưng mà giờ thì có gì phải lo. Đã có Bệ hạ ban thánh chỉ, thấy bất lợi thì giết. Giết chứ gì nữa. Không giết để Hứa Văn lộ mặt là đại thần tham lam trộm cướp ư?
Thế là mãn nguyện nhé.
Dù vẫn biết lần đi này, bao nhiêu vốn liếng tích cóp nhiều năm dồn vào đây, nếu mà nhỡ có chuyện gì, thuyền thuê gặp nạn là đền bù đến khuynh gia bại sản, nhưng thời tiết này, gió này, biển này, trời có thù ghét cũng không thể gây bão tố được.
Nắng chói lòa trên biển. Vẫn còn xa lắm mới tới được đảo có nước lửa.
Dù đường xa thế nhưng Hứa Văn đã thấy lấp loáng, óng ánh những đồng tiền vàng.
Và hắn lại theo thói quen, ngửa cổ lên trời, cười ha hả.
Mấy ngày qua, mọi thông tin, công việc, tình cảm, ý chí của tất cả dân binh, thủy binh đều dồn về đảo Nước Lửa. Không phải ai cũng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng chỉ cần nhìn những công việc đang chuẩn bị ngày một gấp gáp, người ta dần biết rằng, đảo Nước Lửa đang cần được bảo vệ. Đội Nhất và Lý Đạt chỉ huy ở tiền tiêu, ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Từ đảo Vú Mẹ, Lý Thắm và Huệ Hương cho người đưa thuyền mang tới đảo Nước Lửa bao nhiêu vỏ ốc lớn mà Đội Nhất vẫn nói chưa đủ. Lý Thắm phải phát lệnh cho các đảo khác nữa, tìm kiếm vỏ ốc dồn về. Đội Nhất lại sai Lý Đạt dồn dân binh, thủy binh về đảo Nước Lửa, ăn tại chỗ, ngủ tại chỗ, đào nhăng nhít trên đảo những đường hào nhỏ và sâu, chạy từ ven chân đảo, chạy xuyên vào trung tâm, những đường hào ấy dồn về ở cái giếng chứa nước lửa. Đào xong những đường hào ấy, Đội Nhất lại cho đan những phên nứa che miệng hào lại, phủ rong rêu, phủ rau muống biển- thứ cây xanh duy nhất ở đây, nhìn không thấy được. Lại cho các cô gái dùng nhiều dây thừng, buộc nối hàng trăm, hàng ngàn cái vỏ ốc lại với nhau, thành từng sợi dây vỏ ốc dài, trong từng vỏ ốc lại cho chất đầy thứ nước lửa ấy trộn lẫn với cát, với vải, xếp đặt gọn gàng trên những con thuyền và phủ lưới cụ lên che kín. Lại sai mang tới nhiều mảnh buồm cũ, vải áo quần cũ, xé thành sợi nhỏ, đan nối nhau thành bùi nhùi, phơi cho khô, rồi lại thả dài dưới các đường hào. Lại sai đào nhiều hố lớn, kín đáo sau những mô đá, sau những ghềnh san hô, lấy chỗ ẩn nấp của quân binh. Cung tên cũng đã chuẩn bị. Hàng ngàn cây đuốc thấm đẫm loại nước lửa cũng đã chuẩn bị. Gươm giáo cũng đã chuẩn bị.
Đội Nhất lại sai một số dân binh trai tráng ngày đêm khắc chữ lên những thanh gỗ cứng, mỗi thanh khắc hai chữ ĐẠI VIỆT, khắc xong thì đi thuyền tới các đảo chôn sâu xuống đảo, cắm hết mốc giới. Một số dân binh khác thì lo việc đo đạc các đảo, bề ngang, bề dài, bề rộng, hướng nam, hướng bắc, hướng đông, soạn thảo kỹ càng bản đồ, đo đạc tỉ mỉ ở đâu có đá ngầm, ở đâu có san hô, ở đâu là đường đi lối lại an toàn cho thuyền bè, ở đâu là chỗ nước xoáy, đảo nào có loại cây dại gì, có địa hình gì, thủy triều lên xuống hàng ngày thế nào, hướng gió hàng ngày thế nào, thời gian mặt trời lặn mọc thế nào, tất cả cho ghi chép lại, đóng gói để gửi vào cho kinh thành đặng rõ ràng cương giới đảo ngang biển dọc, sung vào kho bản đồ của toàn cõi Việt. Lại sai những người khác theo thuyền đi tới các đảo, tìm kiếm, đào bới những nơi thuyền bè lâu năm bị bão tố đánh chìm, lấy lên những của cải quý giá như vàng ngọc, như vũ khí, như ngư cụ, tập trung dồn hết về đảo Vú Mẹ để đưa về đất liền giao nộp cho triều đình. Khi rảnh việc củng cố chiến sự ở đảo Nước Lửa thì lo củng cố lều bạt, đào nhà hầm, chống chèo chỗ ở, ổn định nơi ăn, nơi ngủ cho từng đảo. Lại xây dựng các kho chứa lương thảo, chứa vũ khí, chứa ngư cụ. Dân binh, thủy binh các đảo đều thanh niên trai tráng, con gái con trai ngày đêm vui vầy, làm đấy, cười đấy, dù có mệt nhọc mà quên mệt nhọc, khí thế bừng bừng, không ai chểnh mãng, không ai lười biếng, không ai thối chí.
Lý Thắm, Huệ Hương nghe lời Đội Nhất, tìm trong đám con trai con gái, ai biết hát thì dạy hát, biết múa thì dạy múa, biết võ thì dạy võ, biết cung tên dạy cung tên, biết bơi lội dạy bơi lội, thành ra trên đảo mọi người đều sảng khoái, vui vẻ, quyện lấy nhau sống, tình cảm thắm thiết, quên nỗi nhớ nhà, quên nơi sóng gió, quên ngày quên đêm, khí thế chưa thấy đâu mạnh mẽ như thế, hừng hực như thế.
Ngày làm, đêm nghỉ. Trai gái ai quen hơi bén tiếng nhau thì tự tìm lấy nhau, tự đưa nhau đi, nói chuyện, làm quen, tay trong tay, nghĩ tới sự tác hợp lâu dài, sinh con đẻ cái.
Những người quen chài lưới thì tranh thủ ra khơi đánh cá, thả lưới gần quanh đảo mà cá nhiều vô kể, ăn không hết thì mang phơi, mang ướp muối, đợi ngày thuyền vào đất liền thì gửi vào.
Đội Nhất yên lòng nhìn thủy binh, dân binh một lòng một dạ cùng chàng giữ đảo, lòng lại thầm cảm tạ Hoàng thượng đã nhìn xa trông rộng, giữ cương giới từ xa, ổn định cuộc sống ngay tại đảo là ổn định lòng mình, không có mốc giới nào vững bền hơn mốc giới trong lòng mình, trong tim mình với đất nước.
Chỉ phiền một nỗi, vừa chân ướt chân ráo kéo quân ra đảo đã lo dàn binh bố trận chống đỡ quân xâm lược. Nhưng thế cũng là dịp thử sức với binh đao.
Nay mọi việc bố phòng, dàn trận kỹ càng, không còn gì phải lo nghĩ nữa.
Chỉ có hai kẻ ở trên đảo mà như ở thế giới khác, không ai hỏi han, không ai sai việc, suốt ngày chỉ biết ngồi bó gối, nhìn trời nhìn đất, đó là Lý Bật và Tiểu Tiểu.
Mỗi ngày qua đi, nhìn cảnh bố phòng của thủy binh, dân binh, nhìn cái cách xây dựng phòng tuyến đón lỏng trên đảo, nhìn cái khí thế một lòng bảo vệ cương giới của dân binh, thủy binh do Đội Nhất chỉ huy, Lý Bật tự thấy hổ thẹn, tự thấy lạc lõng vô cùng. Tiểu Tiểu lại ngơ ngác, rồi cảm thấy thực lòng run sợ trước Đội Nhất. Vừa đấy trên đảo đã thành phòng tuyến, chưa đánh đã thấy thắng lợi, Tiểu Tiểu nghĩ tới cảnh thuyền bè, quân lính của Bắc triều lao vào đảo mà chết trong lửa, đã chợt rùng mình thất sắc.
Hoàng đế Bắc triều nửa đêm cho triệu tập đại quan lo việc quân cơ vào phòng riêng. Đây cũng là việc hiếm gặp, chỉ xảy ra khi đất nước gặp nguy biến. Nhìn sắc mặt của hoàng thượng bất an cũng biết là có việc chi khẩn cấp.
-Bẩm Bệ hạ, giờ này…
-Đúng thế…Ta lo nghĩ không ngủ được. Khanh nói xem, đoàn thuyền của Hứa Văn đã đi được bao xa?
-Bẩm Bệ hạ, tính đường đi, thuận gió, thuận sóng thế này cũng đã được nửa chặng đường tới đảo.
-Nửa chặng đường?- Hoàng thượng nhíu trán- Có cách gì đuổi kịp không?
-Ý Bệ hạ là…
-Khanh phải tìm một chiến thuyền nhỏ, buồm lớn, cử theo một tốp lính có tay chèo giỏi, điều khiển thuyền giỏi, làm sao đuổi kịp đoàn thuyền của Hứa Văn, đưa Thánh chỉ của ta, yêu cầu đoàn thuyền quay về kinh thành, tạm hoãn việc cướp đảo.
Quan đại thần giật mình:
-Bệ hạ…Sao lại thay đổi như vậy?
Hoàng thượng đăm chiêu:
-Tối nay thết đãi yến tiệc với Hoàng đế Đại Việt, khanh ngồi cạnh ta đã nghe rõ hết rồi. Hình như kế hoạch cướp đảo của Hứa Văn đã bị nước Việt nắm rõ, dù chỉ nói bóng gió, nhưng ta biết, việc cơ mật đã bại lộ, nếu cứ cho tiếp tục, lợi bất cập hại, tai tiếng để đời, cái mưu lấy tiếng bọn thảo khấu để cướp đảo e không thành, rành rành mọi chuyện quân ta cướp đảo rõ như ban ngày, tiếng xấu lan truyền trong thiên hạ, rằng Hoàng đế Bắc triều vừa nghênh đón Hoàng đế nước Việt, vừa lén lút cho thủy binh đi cướp đảo nơi cương giới, ta sẽ hổ thẹn biết bao.
Đại quan nín thinh. Lời bệ hạ vừa nói không thể không nghe.
Hoàng thượng lại nói:
-Ta cứ tự hỏi, đảo xa như thế, cứ cho quan đại thần Đội Nhất của nước Việt ép Tiểu Tiểu, dồn Lý Bật khai ra kế hoạch cướp đảo của ta, nhưng đường biển xa xôi, sao có thể đưa tin về nước Việt nhanh như thế. Rồi ta lại tự trả lời, bao năm qua, những triều hoàng đế trước ta nữa, Bắc triều ta thực ngu ngốc, chỉ ham lấn chiếm cương giới trên đất, chỉ ham vơ vét của cải trên đất liền mà quên biển cả. Thế giới ai cũng biết Bắc triều ta đứng hàng đầu về sản xuất sắt thép, đồ đồng, vũ khí, vải vóc, tơ lụa, nhưng lại yếu nát về thủy binh, bỏ bê cương giới biển. Không như người Việt, đường sông, đường biển đều thông thuộc, hướng gió, hướng sóng ở đâu cũng rành rẽ. Đánh nhau với người Việt , chiếm đất đai cương giới của họ bao nhiêu triều đại qua, sở dĩ Bắc triều thua là vì ta phải đi đường biển đường sông, thế là ta phô ra cái yếu để rơi vào cái mạnh của nước Việt. Biết là biết thế mà không làm thế nào….
Đại quan nói:
-Bẩm Bệ hạ, nếu Bệ hạ lo lắng như thế, muốn hoãn binh lại, thần có thể sai một nhóm thủy binh đi thực thi ngay nhiệm vụ.
-Đúng vậy. Đi ngay. Mang thánh chỉ của ta sai Hứa Văn lập tức quay thuyền.
Đại quan vội vã tổ chức chiến thuyền ngay trong đêm.
Từ khi ấy, hoàng thượng Bắc triều mới ngả được lưng lên long sàng, yên tâm chợp mắt.
Đội Nhất đi thuyền về tới đảo Vú Mẹ cũng đã canh ba. Chàng quay thuyền về sớm để tính liệu một việc quan trọng. Đã quen trận chiến binh đao, Đội Nhất hiểu, thắng thua là chuyện không ai nói trước. Nay giữa nơi đảo xa, biển cả mênh mông, thắng không còn gì để nói, thua thì đường thoát e không thể không tính đến. Nay chi bằng cứ chuẩn bị một con thuyền chốt sẵn, nếu có hề chi cho mọi người lặng lẽ theo thuyền mà rút, ưu tiên đàn bà con gái, dân binh. Khi đó, Đội Nhất và anh em thủy binh sẽ ở lại đảo một phen sống mái.
Về gần tới lều, trong ánh trăng mờ tỏ, sương trắng còn bay, bỗng đâu nghe tiếng hát chèo. Tiếng hát chèo của Lý Thắm. Đội Nhất đứng sững bên lều. Lời hát ngân trong, ấm áp, vang lên trong đêm thanh vắng. Lại có tiếng sóng biển như vỗ, như hòa, như nâng, như nhịp, nghe như tiếng trống chèo thăm thẳm trong nỗi nhớ ở quê nhà. Lời hát lại như được dâng lên, thổi lên, vút lên, quyện trong tiếng gió, quyện trong thinh không, vần vũ giữa đất trời cương giới. Lời hát ngọt lắm, điệu đàng lắm, da diết lắm, cứ như có thể níu ánh trăng xuống cát, cứ như chao chiêng màu vàng của cát trên đảo bồng bềnh trong thứ ánh sáng huyền huyền ảo ảo của trăng khuya, lại như lay lắt, níu kéo ruột gan người nghe, thăm thẳm sâu lắng về một miền thơ ấu. Như là thằng cu con Đội Nhất đang níu chân mẹ vào đêm hội làng, trong tiếng hát chèo dệt gấm thêu hoa vùng quê mùa gặt đến. Như là anh chàng Đội Nhất bâng khuâng lưu luyến phải chia tay cô thôn nữ trên con thuyền bé nhỏ chèo lướt dưới sông quê chở đầy ánh trăng bàng bạc, chở đầy những lời hò hẹn, chở đầy nỗi nhớ, chở đầy câu hát. Lại như câu hát của mẹ tiễn Đội Nhất lên đường năm nào, đường làng xanh mướt hàng tre, đường làng mịn màng đất bụi, đường làng nhằng nhịt những dấu chân mùa mưa lũ, những dấu chân người làng in trên đất, in trên bờ bãi, in vào tâm khảm chàng, in vào nỗi nhớ không nguôi, và nối nhịp bước chân chàng như là nhịp trống, nhịp thanh la, như là nhịp phách qua từng câu hát tiễn đưa của mẹ. Câu hát làm Đội Nhất tự dưng quên mình là ai, cứ lững lơ, bâng khuâng, nhớ nhớ quên quên, lung lay trong tâm trí bao nhiêu cảm xúc mà không biết đã bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, chàng không còn nhớ nữa. Chàng bước lại cửa lều, lặng im trong câu hát của Lý Thắm, ngắm nàng đang ngồi bên ngọn đèn, cắt cắt, khâu vá, và nghiêng nghiêng mái tóc thả từng câu hát vào đêm, vào trời, vào trăng, thả câu hát vào đôi mắt chàng, đắm đuối, mê say, day dứt. Nàng không hay biết. Đường kim mũi chỉ của nàng vẫn thoăn thoắt, như nàng đang rất vội, như cố khâu cho xong mũi chỉ cuối cùng. Bóng nàng hắt lên vách lều, mờ mờ tỏ tỏ. Mái tóc nàng chảy xuống, mềm mại. Đội Nhất bước vào, ngồi cạnh. Nàng nhìn Đội Nhất, ánh mắt long lanh.
-Em hát có hay không? Nàng hỏi
-Nàng làm ta nhớ mẹ…
-Em biết. Mẹ chàng hát cũng hay lắm, chàng đã nói thế mà
-Ừ…
-Chàng biết em đang làm gì không? Em đang may cho chàng một cái áo choàng. Trận chiến không biết lúc nào xảy ra. Em muốn chàng ra trận trong chiếc áo choàng em tự khâu, không bằng được quân phục của quan đại thần triều đình nhưng cũng phải oai phong dũng mảnh.
Lý Thắm ngắt nốt mũi chỉ cuối cùng, khoác cái áo choàng vào người Đội Nhất, ngắm nghía ra chiều ưng ý.
Đội Nhất cảm động:
-Ta hứa, ta sẽ mang cái choàng của nàng vào trận
Lý Thắm chớp mắt lo lắng:
-Chàng có tự tin vào trận không? Em lo lắm. Quân binh của ta mỏng, vũ khí ít, có chống lại được thuyền chiến của Bắc triều?
Đội Nhất nắm tay Lý Thắm:
-Vũ khí của quân ta còn là ở trong tim mình, trong lòng mình, trận chiến nào cũng thế, người giữ bao giờ cũng mạnh mẽ hơn người cướp. Nàng hiểu chứ?
Lý Thắm lại hỏi:
-Nếu ta thua thì sao?
Đội Nhất nói:
-Ta đã chuẩn bị thuyền cho đàn bà con gái về đất liền nếu trận chiến gặp nguy biến.
-Còn chàng và anh em thủy binh?
-Đánh đến cùng. Chết cùng chết.
-Không được. Chàng và anh em phải sống
Đội Nhất ngồi xuống cạnh Lý Thắm:
-Ta hứa như vậy. Ta và anh em phải sống và giữ được đảo.
Lý Thắm nằm xuống, gối đầu lên người Đội Nhất:
-Chàng biết không…Sẽ chẳng mấy chốc nữa em sẽ sinh con…Trên đảo có tiếng trẻ con khóc, cười, vui đùa, chàng thích chứ?
Đội Nhất gật đầu:
-Đó là điều ta mong mỏi.
-Khi em sinh con ra chàng sẽ làm gì?
-Ta sẽ hát.
-Sẽ hát?-Lý Thắm ngạc nhiên- Chàng sẽ hát ru con?
-Đúng vậy.
Lý Thắm choàng tay vào cổ Đội Nhất, thì thầm:
-Điều chàng nói làm em muốn khóc. Chàng như thế, oai phong lừng lững, chân tay cứng như gỗ lim, ăn nói bộc trực, tiếng nói át cả sóng to gió lớn, nào ngờ, chàng lại có thể hát ru…
-Đúng thế, ta sẽ hát. Người Việt mình ai mà không biết hát ru…
Rồi Đội Nhất khe khẽ cất lời.
Lý Thắm thì thầm nhắc lại lời Đội Nhất: Người Việt mình ai mà không biết hát ru.
Và nàng cũng cất lời.
Mang trong tay Thánh chỉ lui quân, con thuyền chiến của Hoàng đế Bắc triều chẳng mấy ngày mà đuổi kịp đoàn thuyền của Hứa Văn.
Hứa Văn đã nhìn thấy đảo cát vàng mờ mờ trong tầm mắt thì lệnh cho đoàn thuyền dừng lại.
Hứa Văn nói:
-Truyền đời giao chiến phải lấy bất ngờ làm chính đạo. Nay ta đã nhìn thấy đảo cát vàng của nước Việt kia rồi, chi bằng cho neo thuyền lại, cho thủy binh ăn uống no say, ngủ nghê lấy sức, từ đây tới đó cũng không còn bao xa, đợi đêm tối là rùng rùng xuất binh vào trận
Đô đốc thủy binh gật gù:
-Đại quan cao kiến. Thần sẽ y lệnh
Hứa Văn nhìn thấy thuyền chiến của Triều đình, treo cờ lệnh Hoàng thượng đang áp sát dần tới thì lấy làm ngạc nhiên:
-Sao Hoàng thượng lại cho thuyền đuổi theo ta?
Đô đốc cũng ngạc nhiên:
-Chắc là Hoàng thượng lo lắng, muốn sung thêm quân
-Sung thêm quân? Có mấy thằng ranh ấy thì sung thêm cái gì. Ngươi cho hỏi xem.
Đô Đốc ra hiệu cho thuyền chiến lại gần. Trên thuyền chiến, một viên quan thủy binh của triều đình cầm thánh chỉ nói:
-Có thánh chỉ của Bệ hạ, đại quan Hứa Văn lãnh chỉ.
Hứa Văn trong người khó chịu, hỏi xẳng:
-Thánh chỉ nói gì?
Quan thủy binh trừng mắt:
-Ngài nhận Thánh chỉ Bệ hạ mà không mau quỳ?
Hứa Văn cả cười:
-Ta đang chỉ huy đoàn thuyền chiến ở đây, cần gì phải quỳ, có gì đọc ta nghe
Quan thủy binh cố nén giận, giăng cao Thánh chỉ, rành rọt nói:
-Thánh chỉ Bệ hạ ra lệnh cho ngài lui binh, cho đoàn thuyền trở về Hoàng cung không lưỡng lự..
Hứa Văn đỏ mặt:
-Trở về Hoàng cung?
-Đúng vậy.
-Trở về Hoàng cung?
-Đúng vậy.
-Trở về Hoàng cung?
-Đúng vậy.
Hỏi ba lần, đáp ba lần, Hứa Văn tức tối lồng lộn.
Lại nghe quan Thủy binh hỏi:
-Ta đang thấy có nhiều thuyền lớn của nước lân bang Nhật Bản cùng đi trong đoàn thuyền của Bắc triều ta là ý làm sao?
Hứa Văn nhìn viên quan thủy binh của Triều đình, khó chịu:
-Việc cơ mật, ngươi hỏi làm gì?
-Khá khen, khá khen- Viên quan thủy binh cười lớn-Việc cơ mật lại để thuyền nước lân bang theo cùng, ngươi nói vậy mà không hổ thẹn sao?
Hứa Văn sừng sộ:
-Ngươi dám…
Quan thủy binh khảng khái:
-Không nói nhiều, ngài phát lệnh lui quân
-Không. Không. Không bao giờ- Hứa Văn gào lên
Quan thủy binh sững sờ:
-Ngài dám khi quân?
Hứa Văn nhếch mép:
-Giữa biển cả, quân lính trong tay ta, giờ thì Bệ hạ là ta, ta là Bệ hạ..
Quan thủy binh tuốt gươm ra:
-Ngài dám…
Hứa Văn nhìn đô đốc:
-Ngươi biết làm gì chứ?
-Dạ…việc này..
-Coi như đoàn thuyền của ta chưa hề gặp thuyền chiến mang thánh chỉ của Bệ hạ..
-Nhưng thưa ngài rõ ràng là…
-Coi như thuyền chiến mang thánh chỉ của Bệ hạ trên đường ra gặp ta thì bất ngờ bị lốc biển, ta rất lấy làm đau xót
-Thưa ngài, việc này…
Hứa Văn hét lên, tiếng hét vang cả một vùng:
-Ngu muội. Quân ta đâu, chém.
Chỉ bằng cái phẩy tay của Hứa Văn, rùng rùng mấy chục thủy binh lao tới bao vây nhóm người của triều đình. Rồi cung tên. Rồi gươm giáo. Trong nháy mắt quan thủy binh triều đình và nhóm người đi theo phụng mệnh bị chém chết sạch. Hứa Văn cho hất xác xuống biển tất cả.
Hứa Văn lại cho đốt luôn thuyền chiến của quan thủy binh.
Hứa Văn cầm thánh chỉ, cả cười, rồi vứt nó vào đám lửa.
Viên đô đốc và binh lính nhìn Hứa Văn khiếp sợ.
Hứa Văn nhìn binh lính:
-Vừa nãy ta nói câu gì các ngươi nhớ chứ. Lúc này, Bệ hạ là ta, ta là Bệ hạ. Hiểu cả chưa?
Tất cả:
-Dạ hiểu.
-Lúc này, chỉ có một việc duy nhất là tiến tới hòn đảo kia, hút lấy nước lửa mang về. Ai chống lệnh, chém, hiểu cả chưa?
-Dạ hiểu
-Ta nhắc lại lần nữa, lúc này, từ bây giờ, Bệ hạ là ta, ta là Bệ hạ. Tất cả nhất nhất tuân theo. Lời của ta cũng là Thánh chỉ. Hiểu cả chưa?
Râm ran:
-Dạ..Dạ..Dạ…
Hứa Văn gật gù:
-Hảo. Hảo…
Và lại ngửa mặt lên trời cười ha hả.
Nhưng bất ngờ, có cái gì đó chẹn lại trong cuống họng.
Hứa Văn ho sặc sụa một lúc mới thôi.
Hoàng hôn cũng đã buông xuống.
Hứa Văn nhìn trời, nhìn biển đang sẩm màu dần. Hứa Văn vung tay:
-Xuất binh.
(Còn nữa)