Chào mừng bạn đến với HS TƯ NGHĨA 79-82! Các bạn thân mến! Việc tạo ra một trang WebBlog có khó, nhưng việc duy trì và phát triển “nó” càng khó hơn nhiều lần. Để trang WebBlog của chúng ta tồn tại và phát triển, mỗi chúng ta cố gắng thường xuyên vào thăm “nó” hàng ngày. Chúng ta góp sức mình bằng bài viết, bài nhận xét … có thể ban đầu bài viết ấy không hay, bạn không hài lòng … Bạn viết càng nhiều thì sẽ quen dần và sẽ viết ngày càng hay hơn, ít lỗi hơn … Hãy sưu tập các hình ảnh thời HS, các dấu tích thời HS, các chuyện buồn vui thuở “ấy” … gởi cho BBT, mình hy vọng rằng “cầu nối” này sẽ giúp mọi người xích lại gần hơn.

SAO ĐEN T1(C1-5)

PHƯƠNG DUNG VÀ TÔI

Triệu Huấn

CHƯƠNG I

KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU
Vừa hành quân từ Điện Biên Phủ về Phan Lương nghỉ ngơi được vài ngày thì đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên gặp riêng. Anh nói:
- Cấp trên có lệnh điều cậu đi nhận công tác mới. Mình cũng chưa biết nội dung công việc, nhưng mình cứ chúc cậu gặp nhiều may mắn. Chỉ có điều là cả trung đoàn ta trên chỉ gọi mình cậu, do đó cậu cũng không nên nói rộng chuyện này cho ai. Chia tay anh em thì cậu cứ nói ra được chuyển sang đơn vị khác.
Việc điều động quả bất ngờ với tôi. Thật tình tôi luôn luôn bị ám ảnh về thành phần giai cấp của của mình, khó mà có thể nhận được một sự tín nhiệm lớn lao. Tôi biết có một số con em địa chủ lúc đó buộc phải rời khỏi quân đội. Một số tuy là rất ít có vấn đề đối với nông dân được trả về địa phương để đối chứng với cuộc đấu tranh giai cấp. Phải chăng tôi cũng thuộc loại này? Tôi thấy tâm hồn mình u tối lại. Nhưng rồi lý trí cũng đánh thức tôi. Khi ở nhà tôi hãy còn trẻ đã làm nên tội lỗi gì. Hơn nữa vùng quê tôi còn trong địch hậu, chưa có cải cách ruộng đất. Như vậy làm gì có chuyện nông dân đòi tôi về. Thế là tôi lại yên tâm vui vẻ lên đường.
Tôi nhớ mãi hôm chia tay đồng đội. Anh em nhìn tôi lưu luyến, nhưng cũng có những cặp mắt chứa đựng những dấu hỏi im lặnng. Đã vào sinh ra tử với nhau ngoài mặt trận, đã chân thành với nhau trong chỉnh quân chính trị thì mối thiện cảm với nhau cũng đã được xây dựng bền vững. Chúng tôi ôm nhau xúc động. Tôi ra đi một mình không ai đưa tiễn. Chỉ khi lên đến Phòng chính trị sư đoàn đồng chí trợ lý cán bộ mới đưa cho tôi giấy tờ và một bức thư nhỏ. Tôi mở ra đọc vội. Bức thư chỉ vẻn vẹn có mấy dòng:
Cháu Phan Quang Nghĩa
Mẹ cháu ốm. Cậu xin phép cho cháu về thăm, tiện chuyến về Khu Ba công tác. Cậu chờ cháu ở xóm Trung xã Hoàng Văn Thụ, Đại Từ - Thái Nguyên. Cháu phải thu xếp nhanh, cậu sợ không kịp
Cậu của cháu - Nguyễn Hữu Đức
11 tháng 6 năm 1954
Thì ra câu chuyện chỉ có thế. Tôi vừa mừng vừa lo cho mẹ tôi. Không hiểu tại sao cậu Đức lại biết tôi hành quân về mà xin cấp trên cho tôi nghỉ phép. Câu chuyện đơn giản thế mà đại đội lại không thông báo cho tôi rõ ràng? Tại sao tôi lại phải mang toàn bộ tư trang và tấm giấy phép lại kèm theo cả giấy chuyển cung cấp về P.46? Khi tôi chưa thể lý giải được những sự kiện trên thì ký ức về người cậu họ lại dần dần tái hiện trong tôi lọc qua những lớp bụi thời gian mờ ảo.
Cậu Đức là em họ xa của mẹ tôi. Là người có học hành đỗ đạt nên cậu nổi bật trong số những người thân bên ngoại. Quê mẹ tôi ở xa nên từ nhỏ tôi chỉ về thăm vài lần và cũng chưa được gặp cậu. Nhưng lần nào về tôi cũng được nghe họ hàng nói về cậu. Mười hai tuổi đầu cậu đã học xong những bộ sách chữ nho Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung... dày cộp mà nhiều người khác sôi kinh nấu sử từ thuở thiếu thời tới lúc vợ con đàn đống mà vẫn chưa thông hiểu chữ nghĩa của Thánh hiền. Gia đình thấy cậu sáng dạ và cái chữ Nho cũng đến thời mạt vận nên quyết định cho cậu theo tân học. Nhà ông bà nghèo nhưng cả họ xúm vào giúp đỡ, cậu được ra tỉnh theo việc đèn sách và cậu đã không phụ lòng cha mẹ. Tám năm sau cậu kiếm được cái bằng "đíp-lôm", làm rạng danh tổ tông làng xóm. Cậu không tiếp tục học nữa mà đi kiếm việc làm. Nhưng hình như cậu cũng không gặp may vì tuy chí thú như vậy cậu cũng chẳng đưa được đồng nào về nuôi dưỡng mẹ cha, đền ơn họ mạc. Năm 1944 không còn ai gặp cậu. Người đồn cậu bị vào tù, người nói cậu trốn đi Xiêm. Năm 1945 cách mạng thành công mọi người mới vỡ lẽ là cậu theo Việt Minh lên chiến khu hoạt động. Tôi đã tưởng tượng ra cậu và luôn luôn tự hào qua những giai thoại về cậu được bà con kể lại. Mãi tới sau ngày kháng chiến toàn quốc, trong một lần đi công tác cậu mới tạt qua thăm gia đình chúng tôi. Tôi được nhìn cậu lần đần trong bộ ka ki màu vàng của Vệ quốc quân, một khẩu súng ngắn đeo lệch bên sườn, một chiếc thắt lưng tổ ong to bản "rất đúng mốt" vào những năm 47, 48. Mẹ tôi rất kiêu hãnh về người em họ của mình, đặc biệt khi cậu ngồi nói chuyện về thời sự đất nước và quốc tế trước đám cử tọa gọi là am hiểu nhất của cánh nội chúng tôi. Tôi thấv trái tim mình tràn đầy lòng yêu nước, và nếu như lúc này người ta chấp nhận cho tôi đứng dưới lá Quân kỳ thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trong những trận đánh đầu rơi máu chảy. Đêm hôm đó hai cậu cháu tôi nói chuyện với nhau đến khuya. Tôi ngỏ ý xin đi theo cậu nhưng cậu chê tôi còn nhỏ quá. Cậu khuyên tôi cố gắng học hành, sớm muộn nguyên vọng của tôi sẽ được thực hiện. Từ đó thỉnh thoảng tôi có thư từ qua lại với cậu theo nhiều địa chỉ.
Năm 1949 giặc Pháp đánh ra đồng bằng, tôi phải bỏ dở học hành phiêu bạt vào Thanh Hóa và xin tòng quân. Tôi viết thư báo tin cho cậu và mong đợi thư trả lời. Nhưng từ đó đến nay tôi mới nhận được mấy dòng ngắn ngủi của cậu. Tôi mong mỏi tới gặp cậu để kể cho cậu nghe những chuyện chiến đấu của tôi ở Điện Biên mà tôi tin là cậu tôi sẽ rất vui mừng.
Chỉ một ngày mà tôi cuốc bộ từ Phan Lương đến Đại Từ. Đôi chân của tôi tỏ ra thiện nghệ và ngoan ngoãn. Tôi phải lần theo địa chỉ trên và đến được nơi tiếp nhận. Khi tôi đưa mẩu giấy ra, chị thường trực vui vẻ nói với tôi:
- Anh Đức chờ chú mấy bữa nay rồi. Anh cứ lo là chú đã chuyển đi đơn vị khác. Tối nay chú cứ nghỉ đây. Tôi gọi điện và báo tin. Sớm mai thế nào cậu cháu cũng được gặp nhau.
Chị bảo người chuẩn bị cơm nước và chỗ ngủ tôi rồi xách đèn đi gọi điện thoại. Bữa cơm tối đó rất ngon miệng tuy chỉ có một đĩa măng luộc và mấv thìa muối vừng. Cứ nghĩ đến chuyện sắp được cùng cậu về quê thăm mẹ, lòng tôi lại phơi phới. Tôi mắc màn và nghĩ bụng đêm nay sẽ ngủ một giấc quên chết để phục hồi lại cái năng lượng cuốc bộ hơn năm mươi cây số thì có tiếng bước chân người và ánh đèn pin từ phía ngoài.
- Nghĩa đấy à, cậu mong mãi?
- Cậu! Cháu đấy ! - Tôi chạy ra đón cậu. Ánh đèn sáng lên khuôn mặt vui vẻ và nhiệt tình của cậu.
- Lớn quá! Đúng là một chiến sĩ Điện Biên Phủ! Cơm nước rồi chứ? Thôi cuốn màn lại, vào trong kia cậu cháu ta nói chuyện cho vui - Cậu quay lại phía chị thường trực - Chúng tôi vào K2 ngay bây giờ.
Cậu giúp tôi đeo chiếc ba lô nhẹ tênh lên vai. Dưới ánh đèn pin tôi theo cậu tôi đi một đoạn đường rừng chừng hai cây số thì đến một căn nhà lá của cơ quan. Một căn nhà đơn độc nằm giữa một vùng rừng rậm bao la. Một người, có lẽ là bộ đội, đã chờ sẵn.
- Báo cáo, tôi đã thu xếp đầy đủ.
- Tối nay tôi cũng ngủ đây - Cậu nhìn cái ca và chiếc bi đông đặt trên bàn - Có nước nóng đấy chứ?
- Dạ, có cả trà nữa ạ.
- Thế là đủ rồi, đồng chí có thể về bên A3 được đấy.
Anh bộ đội gật đầu chào nghiêm chỉnh rồi đi luôn.
Tôi thấy một cái màn buông sẵn trên sạp nứa. Cơ quan kháng chiến mà cũng có màn đôi. Nếp sống của lính gây cho tôi một cảm giác là lạ và mới mẻ.
- Cháu ra rửa chân tay đi.
Cậu tôi bấm đèn cho tôi ra suối. Dòng nước mát làm cho tôi tỉnh táo và dễ chịu. Chúng tôi trở về và hai cậu cháu ngồi đối diện nhau trước một chiếc bàn con kê bằng nứa. Một ngọn đèn nhỏ có chụp phòng không tỏa một vòng sáng hẹp trên bàn. Cậu rót nước ra hai chiếc ca. 
- Uống nước đi rồi cậu cháu ta nói chuyện. 
Cậu nhìn thẳng vào cặp mắt tôi và tôi cũng nhận thấy tia sáng lấp lánh của đôi mắt cậu ánh lên từ trong khoảng tối của chiếc chao đèn. 
- Chắc là cháu mệt lắm nhỉ? Đi bộ năm mươi cây số một ngày là giỏi lắm. Lẽ ra là để cháu nghỉ nhưng cật cháu ta đều ít thời gian quá. Cháu vui lòng nói chuyện với cậu độ một tiếng nhé. Sau đó cháu sẽ ngủ hay nằm suy nghĩ tùy cháu. 
- Vâng, cháu có thể nói chuyện với cậu đến sáng. Cái mệt này có thấm đâu so với những đêm hành quân chiến đất ngoài mặt trận. Xin cậu hãy tin là cháu đã trở thành người chiến sĩ thực thụ rồi chứ không mềm yếu như một cậu học sinh nữa đâu. 
- Tốt! À hồi đó cháu học đến đâu thì bỏ? 
- Cháu học hết đệ nhị ở Khu Ba. Vào Khu Bốn học tiếp đệ tam được vài tháng là cháu đi bộ đội. 
- Hồi đó có học tiếng Pháp, tiếng Anh không? 
- Dạ... một tuần chỉ có bốn tiết sinh ngữ. 
- Cháu còn nhớ được chút nào không? 
- Dạ... Cháu cũng chưa kiểm tra lại. Chắc là bập bõm lắm. Vì trong kháng chiến môn này không được coi trọng. 
- Đúng như vậy - im lặng một phút, cậu hỏi tôi với vẻ mặt rất nghiêm trang - Cậu đang muốn kéo chán về công tác với cậu, cháu thấy thế nào? 
Tuy chưa biết cậu làm công việc gì tôi vẫn hồ hởi đáp: 
- Cháu mừng quá chứ ạ. Được công tác gần cậu thì con gì bằng, cháu chỉ sợ là cháu không đủ khả năng thôi. 
Tôi trả lời không do dự, với tất cả tấm lòng chân thành của mình. 
- Tất nhiên là công việc đòi hỏi phải có một trình độ nhất định. Nhưng tiêu chuẩn cao nhất là sự trung thành. 
- Cái đó thì cháu có đủ, xin cậu hãy tin ở cháu - Tôi biểu hiện tiếng nói của mình kiên quyết như một lời thề - Trong thư cậu nói mẹ cháu bị ốm, sao cậu biết được tin đó? Không biết đến nay sức khỏe mẹ cháu ra sao? 
- À, đó là chuyện cũ. Cách đây bảy tháng cậu có nhận được thư của Huệ (Huệ là chị ruột tôi). Huệ nói mẹ cháu bị đau thấp qua loa, nhưng chắc là không quan trọng lắm - Cậu mỉm cười - Mấy dòng cậu viết cho cháu không có ý nghĩa gì về nội dung. Cậu không muốn ai biết công việc của cậu cháu mình, và cậu mong cháu về đây ngay để hỏi cháu xem cháu có thích công việc của cậu giao cho không? 
- Việc gì thế cậu? 
Tính tò mò của tôi bị kích thích ghê gớm. Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt của cậu để dò đoán nhưng tôi chỉ thấy sự trầm lặng nghiêm trang. Trước khi nói công việc cụ thể, cậu cần nói cho cháu nghe một số tình hình... Cháu ở Điện Biên về chắc cháu đã tận mắt thấy chiến thắng to lớn của ta? 
- Vâng, thật là vĩ đại. Cháu cứ nghĩ là mình thật quay mắn được tham dự trận đánh lịch sử này từ đầu đến cuối. Đó là một vinh hạnh không phải ai cũng có được. 
- Tầm vĩ đại của nó còn vượt xa những cái cháu nhìn tận mắt ở chiến trường. Tình hình đã dẫn đến những bước ngoặt lớn của lịch sử. Thua trận này quân Pháp có thể sẽ phải đau đớn lựa chọn những giải pháp trên bàn hội nghị những giải pháp mà từ trước đến nay họ luôn luôn khước từ. Như cháu thấy đấy cuộc đàm phán Giơ-ne-vơ đang đi đến những bước rất quan trọng và tế nhị. Về phía ta bao giờ cũng phải chuẩn bị cho cả hai khả nàng. Nếu giới hiếu chiến còn thao túng được chính trường nước Pháp đi theo cây gậy chỉ huy của Mỹ thì cuộc chiến tranh còn kéo dài và chúng còn phải nhận những thất bại quân sự lớn hơn. Nhưng nếu ý nguyện hòa bình của nhân dân Pháp thắng thế, phe chủ hòa nắm được quyền lực thì sẽ đi đến một thỏa hiệp. Tất nhiên do tương quan lực lượng như hiện nay, một hiệp định hòa bình nếu có cũng chưa cho phép ta giành được thắng lợi hoàn toàn. Cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc còn phải tiếp diễn trong một điều kiện mới. Sẽ có hai vùng tập kết quân đội và dĩ nhiên cũng sẽ là hai vùng khác nhau về chế độ và ảnh hưởng chính trị. Trong khi chờ đợi thống nhất đất nước, cuộc đấu tranh trong vùng quân Pháp kiểm soát sẽ rất gay go và quyết liệt. Nếu chúng ta không có sự chuẩn bị trước thì địch sẽ giành được lợi thế trên những phạm vi bỏ trống đó. Đấy là cậu chưa nói đến có thể tình hình còn diễn biến theo những chiều hướng khác phức tạp hơn. Vì ngay từ lúc này Mỹ đã cố ngăn chặn con đường đi đến giải pháp thì sau này biết đâu thừa lúc Pháp suy yếu chúng sẽ nhảy vào để tiếp tục nắm bọn Việt gian chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Về cả hai phía, một mặt trận mới đang tăng cường. Mặt trận thầm lặng đang dồn nén những sức mạnh ghê gớm và nó sẽ nổi bật lên sau khi tiếng súng chiến tranh chấm dứt. Cậu được cấp trên giao cho nhiệm vụ này. Dĩ nhiên là chỉ trên một lĩnh vực, một địa bàn nào đó. Cậu cũng cần có một đội quân, tuy nó không đông như những tiến đoàn, trung đoàn nhưng mỗi người lính ở đây đòi hỏi phải có một sự tự nguyện, một ý chí kiên định, một khả năng tự chủ rất lớn, cháu có biết không? 
- Cháu biết. 
- Tôi xúc động trả lời. Tuy tình hình khẩn trương, không không thể chiêu binh mãi mã ào ạt được. Cậu phải chọn từng người. Mỗi người thích hợp với một vai nhất định. Cậu bỗng nghĩ đến cháu. Hoàn cảnh của cháu có những mặt thuận lợi hiếm có. Liệu cháu có muốn đứng trong đội ngũ của những chiến sĩ đó không. Cậu chưa đòi hỏi cháu trả lời ngay. Cháu cứ suy nghĩ kỹ đi. Nhưng khi đã tự nguyện thì vì danh dự của một tình báo viên, cháu sẽ chấp nhận tất cả mọi thử thách và tuyệt đối trong thành với sự nghiệp cách mạng. 
- Ngay giờ phút này xin cậu hãy ghi tên cháu vào đội ngũ. Cháu không phải suy nghĩ lâu làm gì. Cháu hoàn toàn vui sướng được nhận nhiệm vụ này. Nó lôi cuốn cháu không phải vì những pha ly kỳ mạo hiểm mà là cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Cháu biết nó không dễ dàng và có thể phải hy sinh cuộc sống. Nhưng cháu tự nguyện. Nếu có phải tuyên thệ, cháu xin sẵn sàng. 
Giọng nói sôi nổi nhiệt tình và có vẻ bồng bột của tôi khiến cho cậu phải đặt hai bàn tay lên đôi vai tôi như cố nén những xúc cảm của tôi cho nó trở về với sự suy ngẫm của lý trí. 
- Cháu không phải tuyên thệ, nhưng sự tự nguyện của cháu cũng thiêng liêng như một lời tuyên thệ. Kẻ hèn nhát có tuyên thệ cả ngàn lần gặp gian nguy họ vẫn phản bội. Danh dự của cháu đảng bảo cho sự trung thành. Cháu hăng lái như vậy là rất tốt. Nhưng cậu tin là cháu chưa hình dung công tác này một cách đầy đủ đâu. Cháu sẽ phải sống giữa bày sói, tự mình chèo chống. Cháu sẽ phải bước vào một cuộc đời đối lập với chính mình. Phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt, phải có kỷ luật tự giác cao, phải vững vàng trước mọi cám dỗ về linh hồn lẫn thể xác. Phải chịu cảnh cô đơn của một người trên hoang đảo giữa biển người chứ không phải là biển nước. Tất nhiên cháu cũng sẽ có những phút giây hạnh phúc mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ nhưng niềm vui này không dễ đem chia sẻ cùng ai. Cháu vẫn sẽ vô danh với chiến công của mình. Vinh quang của người chiến sĩ tình báo là vầng sáng không ai nhìn thấy được. Thậm chí họ còn phải chịu đựng cả sự phỉ báng của những người thân yêu chân chính. 
- Cháu xin chấp nhận tất cả để đổi lấy niềm tin của cậu, đổi lấy sự tín nhiệm của Tổ Quốc. 
- Cậu nảy ra ý định tuyển chọn cháu cũng đã là biểu hiện niềm tin của cậu. Dưới con mắt của một số đồng chí, cháu xuất thân từ giai cấp đối kháng đã gây cho anh em một số e ngại. Nhưng cậu hiểu cháu. Cậu tin ở lòng yêu nước, yêu cách mạng của cháu, ở một con người đã được tôi luyện trong chiến đấu. Cháu lại có một hoàn cảnh đặc biệt để tiến hành công tác này. Cậu hy vọng là cháu có thể chứng minh cho các đồng chí của cậu thấy nỗi phân vân của họ là vô nghĩa. 
- Cháu sẽ chứng minh dù phải bằng cái chết. 
- Không phải bằng cái chết mà bằng những chiến công. Tổ Quốc đòi hỏi ở mình chiến công chứ không phải là cái chết. 
Cậu giải thích cho tôi hiểu rằng đưa một chiến sĩ tình báo tới địa bàn tác chiến là rất công phu. Nếu phải một đổi một thì cũng coi như thất bại. Phải bảo toàn lực lượng. Không thể khinh xuất trong mọi tình huống chưa cần thiết nhưng lại phải biết mạo hiểm trong những đột biến của thời cơ - Cậu tôi chuyển sang chuyện gia đình: 
- Lâu nay cháu có biết tin tức gì của anh Ân cháu không? 
- Không ạ. Suốt từ đầu năm 1948 anh cháu vào thành và biệt tin. 
- Bây giờ Phan Quang Ân không còn hành nghề luật sư nữa. Anh ta chuyển sang hoạt động chính trị rồi. 
Vừa nói cậu vừa rút trong xắc cốt ra một tập báo cắt vụn, ghim lại thành một tập hồ sơ. 
- Đây là những diễn văn, những tuyên ngôn của anh ta. Nhưng thôi, để sáng mai cháu hãy xem. Ân tự xưng là không đảng phái nhưng anh ta đã bắt tay với nhiều tên đầu đảng phản động. Bọn này đang tập hợp lực lượng để thành lập một liên minh chống cộng rộng lớn nhất. Anh ta viết nhiều bài công kích chính sách của Pháp, nhưng hành động cụ thể anh ta tìm kiếm chỗ dựa ở Mỹ, ve vãn một số giới cực đoan hiếu chiến theo đuổi chủ trương đánh đến cùng. 
Lướt qua vài mảnh báo, tôi nhận ra ngay chân dung ông anh tôi trong những giảng đường, những diễn đàn, trong những buổi tiếp tân và nhtíng phòng trà chính trị. Hình ảnh đó làm tái hiện lên cả một thời quá khứ của gia đình tôi. 
Cha tôi là một trong những sĩ tử cuối cùng lều chõng đến trường thi để tìm kiếm công danh trong cái thời kỳ suy đồi của nho học. Ông đỗ cử nhân trong thập kỷ đầu của thế kỷ này và được bổ làm huấn đạo. Sau năm năm, ông được thăng tri huyện, cái cấp thấp nhất trong ngạch quan trường thời phong kiến. Vốn xuất thân từ con nhà bình dân, cha tôi là một người giản dị, dễ yên phận và thỏa mãn. Trong cảnh đất nước nộ lệ, viên quan huyện xuất thân từ nho học không được chính phủ bảo hộ ưu ái. Nhiều vị đồng môn, đồng khoa với cha tôi có tấc lòng tiết tháo đã đi theo tiếng gọi cứu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Cha tôi, thời trai trẻ có ảnh hưởng một phần và nghe đâu đã có lúc gắn bó với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhưng chỉ qua một đợt khủng bố là ông không còn can đảm để kiên định lý tưởng của mình nữa. Ông nằm im, an phận thủ thường và ít lâu sau về hưu sống ở quê nhà với số lợi tức nho nhỏ kiếm từ dăm mẫu ruộng. 
Cha tôi có hai vợ. Bà cả chỉ sinh được một người con trai. Đó là anh Phan Quang Ân của tôi. Bà cả mất cha tôi nói lấy bà kế và sinh được thêm lai người con: chị Huệ tôi và tôi. Lúc ấy cha tôi tuổi tác đã cao. bổng lộc đã cạn. Chẳng bao lâu cha tôi mất. Đó là vào năm 1938 khi tôi mới lên sáu tuổi. Theo phương ngôn: "Giấy rách giữ lấy lề", gia đình tôi rất chăm chút tới sự học hành của con cái. Anh tôi vẫn trọ học ở Hà Nội và anh đã leo lên các bậc thang kiến thức rất đều đặn. Giống cha tôi thuở xưa, anh rất chăm chỉ, cần cù và năm 1943 anh đỗ cử nhân. Là con chồng, nhưng anh tôi luôn luôn nhận được sự chăm sóc rất tận tình của mẹ tôi người dì ghẻ mà anh quý như mẹ đẻ. Lẽ ra anh cũng được bổ tri huyện nối nghiệp cha, nhưng trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình chính trị rất sôi động: gia đình tôi không muốn anh bước chân vào chốn huyện đường làm gì. Anh đã thụ giáo nghề luật sư và mong mỏi sau này mở một văn phòng bào chữa. 
Một bước ngoặt quan trọng của đời anh có lẽ là sự kiện anh lấy vợ. 
Đầu những năm bốn mươi hoàn cảnh gia đình tôi cũng không dư dật lắm. Tuy có mấy mẫu ruộng nhưng cùng một lúc nuôi ba anh em đi trọ học ở Hà Nội mẹ tôi cũng phải rất chật vật. Gạo, tiền hàng tháng đều có ngữ. Anh tôi phải chủ trì sự chi tiêu đèn sách cho cả ba anh em. Để đỡ túng bấn, anh tôi phải tính kiếm thêm chút ít. Buổi tối, anh tôi chạy theo mấy "cua prê-xép". Nhà giàu thời đó thường thích thuê sinh viên đến dạy thêm cho con cái. Nhờ bạn bè mách bảo, anh tôi thường không thiếu công việc. Anh tôi là một người khỏe mạnh, đẹp trai, học giỏi có tiếng. Tuy ăn mạc không có gì sang trọng lắm, nhưng bao giờ cũng sạch sẽ gọn gàng. Một cô nữ sinh con nhà giàu đã "cảm" anh tôi. Lúc đó tôi còn nhỏ chưa hiểu rõ chuyện này. Tôi chỉ thấy đôi lần có chiếc xe Rơ-nô màu sữa đến đón anh tôi hoặc đưa anh về nhà. Những năm chiến tranh, ét xăng rất thiếu. Chỉ có những nhà giàu làm mới chạy xe ô tô nhà. Dùng ô tô để đi đón gia sư thì lại càng là chuyện đặc biệt. Vì vậy chúng tôi đều rất tự hào về anh của mình. Rồi có một lần bất chợt cô học sinh của anh tôi đến thăm chúng tôi. Hơn chục năm đi qua rồi mà cái ngày vui vẻ ấy vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi. Chị bước xuống xe trong bộ quần áo dài trắng muốt, đôi giày cũng trắng. Mái tóc dài làm nổi bật khuôn mặt hồng hào xinh đẹp của chị. Anh tôi lúng túng đến tội nghiệp trước cái cảnh lộn xộn chật chội của căn buồng ở chung của ba anh em. Một cái bàn học trò kê sát vào chân tường. Những chồng sách vở đầy bụi bám cao ngất ngưởng tới tận đỉnh màn. Bộ com-plê cũ được che bằng một tờ báo treo trên mắc. Tường vôi vàng lở ố từng mảnh lớn. Những cái hòm đen như quét hắc ín kê ngay trên đầu giường. Mấy cái ghế đẩu mỗi cái một kiểu, và ngay đến những cái chén vàng cặn nước chè cũng không trọn bộ. Nhìn bộ quần áo trắng tinh của chị, anh tôi không biết mời chị ngồi đâu. Cuối cùng chị cũng ghé xuống thành giường. Chị chia quà cho chúng tôi, những gói kẹo sô-cô-la mà con nhà nghèo ít khi được nếm. Và chẳng bao lâu chị đã là chị dâu của chúng tôi. 
Đám cưới của anh tôi cũng là một sự kiện lớn trong vùng quê tôi. Đó là vào cuối năm 1944 khi anh tôi vừa giành được tấm văn bằng luật lọc. Đón dâu về làng với một đoàn xe mười chiếc thì thật là chưa từng có. Nhà trai chúng tôi chẳng có gì nhưng đám cưới vẫn linh đình. Ông bà thông gia hào phóng đã đưa cho anh tôi mọi khoản chi cần thiết. Cô dâu về đến nhà chồng chỉ ở lại ba tiếng. Sau khi tế tơ hồng, xe hoa lại đưa cặp vợ chồng trẻ về thành phố. Đã có một ngôi nhà riêng dành cho họ trong tuần trăng mật. 
Lớn lên tôi mới hình dung nổi sự giàu có của gia đình ông bố vợ anh tôi. Ông Cự Phách là chủ của nhiều cửa hiệu buôn ở Hàng Ngang, Hàng Đào. Chủ hãng vận tải Phúc Lợi chiếm nửa cổ phần trong công ty thủy vận Long Vân, giám đốc công ty xuất nhập khẩu hàng tơ lụa, chủ nhà in Viễn Đông... ông là một nhà kinh doanh giàu kinh nghiệm. Ông thành công trong nhiều áp phe lớn, đánh gục nhiều đối thủ một cách nhẹ nhàng và... cao thượng như người ta thường nói. Ông muốn có một luật sư trong nhà để lo liệu những khía cạnh pháp lý trong kinh doanh. Ông đã chọn anh tôi một cách hài lòng và không chút tính đến sự chênh lệch về tài lực giữa hai gia đình. Ông cũng có về chơi nhà tôi một lần. Ông trèo cây hái quả, ngồi bệt xuống cầu ao câu cá, xuống bếp tán chuyện vui với mọi người trong nhà và tuyệt nhiên không bao giờ khoe mẽ sự giàu có của mình. Đó là một con người ngoài năm mươi tuổi, rất thực tế và am hiểu nhiều lĩnh vực, năng động trong mọi hoàn cảnh. 
Cách mạng tháng Tám thành công, anh tôi cũng vui sướng hòa mình vào dòng người biểu tình, hô đến khản cổ những khẩu hiệu Độc lập, Tự do, Dân chủ, nhưng chỉ sau cái lừ mắt của ông bố vợ, anh đã tách mình khỏi hơi thở của dân tộc. "Chờ xem tình hình ngã ngũ ra sao đã. Cái đám người ồn ào hò hét như thác lũ đó không mạnh lắm đâu! Chỉ vài loạt liên thanh, mấy chục cây thịt đổ ra đấy là chạy như vịt cả thôi. Hãy đợi xem Việt Minh có võ khí gì và cường quốc nào đứng sau họ". Ông ta lấy kinh nghiệm trong những cuộc chống bãi công và những hành động khủng bố trắng làm cơ sở cho sự xét đoán. Anh tôi nửa tin ông bố vợ, nhưng nửa bị phong trào yêu nước lôi kéo đã trở nên hoang mang. Còn tôi và chị Huệ tôi thì vô tư hơn, chúng tôi ủng hộ cách mạng hết mình. 
Ngày 23 tháng 9 nam 1945 Pháp khởi hấn ở Sài Gòn. Được quân Anh yểm trợ, chúng đã chiếu nhiều vị trí trong thành phố. 
Quân Tưởng vào Bắc vĩ tuyến 16 giải giáp quân Nhật. Đi theo chân bọn Tàu là các phần tử Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Hải Thần cầm đầu, chúng đòi chia xẻ thắng lợi và mưu toan tiếm đoạt quyền hành. Những sự kiện trên củng cố sự hoài nghi của anh tôi. 
Năm cách mạng cũng là năm nạn đói và dịch bệnh hoành hành dữ dội. Hai chị em tôi vẫn ở căn buồng cũ gần chùa Am. Hàng tuần anh tôi lại thăm và cho tiền khi chúng tôi thiếu thốn. Mặc dù rất quý anh, nhưng mẹ tôi không cho phép chúng tôi nhờ vả gì bên nhà thông gia vì sợ bị người ta khinh. 
Nhà chúng tôi liền tường với một vị trí của quân Tàu. Một buổi sáng tỉnh dậy, tôi thấy một gói gì lập lờ trong chậu nước gạo, thì ra một tên Tàu ô nào đó đại tiện vào giấy gói lại và ném sang. Chờ chúng tôi lôi cái gói giấy ở thùng nước gạo ra, mấy tên Tàu mới ló đầu ra cửa sổ gác nhà tám mái cười hô hố. Tôi nhìn lên thất mấv cái đầu trọc. Trước sự căm giận của chúng tôi, bộ mặt của những tên đó càng nhăn nhở khả ố. 
Tôi kể lại chuyện trên làm anh tôi lo sợ. Chị Huệ tôi lúc đó cũng đã mười sáu tuổi. Sống bên bọn lính ngoại quốc tồi tệ này lành sao lường trước được mọi sự nguy hiểm. Anh tôi quyết định để chúng tôi tạm lánh về quê chờ cho cái thời buổi nhiễu nhương này qua đi. 
Từ ngày đó chúng tôi xa nhau. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ không thấy anh tôi trở về. Có người gặp anh tản cư với gia đình vợ sang bên Hưng Yên và đầu năm 1948 họ lại kéo nhau về Hà Nội. Sự thay đổi thái độ chính trị của anh tôi sau đó ra sao tôi không rõ. 
- Nghĩa này cậu định cho cháu về với anh cháu. Trước mắt, trong vài năm tới cháu chưa phải làm công tác gì lớn. Cháu cần phải học hành thật tốt và tìm cho mình một chỗ đứng trong đội ngũ sĩ quan địch. Lúc đó cháu sẽ giúp được nhiều cho cách mạng. Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi phải kiên nhẫn mai phục, không thể vội vàng được. 
- Vâng. Cháu chỉ muốn là trong thời gian đó, tuy chưa được giao việc nhưng cháu vẫn có được mối liên hệ chặt chẽ với tổ chức. Cháu sợ sự cô đơn hơn là sợ kẻ thù. 
- Sẽ có một mối liên hệ rất chặt chẽ với tổ chức. Một mối liên hệ khăng khít và tế nhị đến mức mà cậu lo là cháu sẽ không dám chấp nhận. 
Cậu mỉm cười nhìn tôi. Nụ cười khó hiểu càng kích thích tính tò mò của tôi. 
- Xin cậu cứ nói. Cháu sẽ chấp nhận mọi giá để hoàn thành nhiệm vụ. 
- Mọi chuyện sẽ chỉ được nói vào lúc thích hợp. Công tác này không thể nóng vội được. Cháu chỉ được phép biết những điều cần thiết vào một thời điểm chín muồi. Ngay cả cậu cũng vậy thôi. Đó là nguyên tắc của nghề nghiệp. Trong công tác tình báo, một việc giao cho A nay rút lại thì khi giao cho B phải dùng kế hoạch khác, dù rất tin A. 
Câu chuyện giữa tôi và cậu tôi buổi tối hôm đó tuy ngắn ngủi nhưng nó chứa đựng rất nhiều chủ đề. Cách trình bày sáng tỏ của cậu làm cho tôi nhận thức được nhanh chóng và nó còn kích thích khát vọng của tôi rất mạnh mẽ. Tôi muốn cậu nói nhiều hơn nữa, nhưng cậu đã dừng lại. 
- Cháu ngủ đi. Mệt rồi đấy. Cậu không làm quá chương trình đâu? Cháu sẽ chờ đón những điều mới mẻ ở ngày mai. Không được thao thức. Phải tập giữ cho thần kinh thăng bằng. Phải ổn định được tính cách thì mới bình tĩnh trong những tình thế đột biến. 
Nói xong cậu ngủ luôn, còn tôi, cái mệt mỏi của một ngày đường bộ cũng không sao làm cho bộ óc tôi buồn ngủ. Tôi ôn lại toàn bộ câu chuyện buổi tối hôm đó. Tâm hồn tôi lang thang trong ký ức của tuổi thơ... Tôi chìa dần đi trong giấc ngủ chập chờn đầy mộng mị. 
Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc tôi đã thấy cậu đứng ngoài sân tập quyền. Tôi vội choàng dậy. Nắng sớm đã nhuộm vàng những ngọn núi cao. Thấy tôi, cậu hỏi ngay: 
- Đêm qua cháu ngủ ngon chứ?... Thao thức à? Muốn làm chủ giấc ngủ của mình cũng phải tập đấy. Cậu định ngủ là ngủ, định thức là thức. 
Nhìn xung quanh chỉ có rừng mênh mông, không thấy cơ quan của cậu tôi đâu ngoài ngôi nhà bé nhỏ trơ vơ này. Như đoán ra thắc mắc của tôi, cậu nói: 
- Đây là cán nhà đặc biệt dành cho cháu đấy. Cơ quan còn cách đây khá xa. Trong thời gian trao đổi nhiệm vụ với cháu, cháu không được đi đâu xa. Tắm giặt dưới suối. Cơm nước có người mang đến. Cần gì cháu cứ nói với cậu. Ai hỏi chuyện cháu đừng nói gì về lai lịch của mình và công việc của chúng ta. Đó là nguyên tắc để đảm bảo an toàn lâu dài cho cháu. Cháu rõ chưa? 
- Vâng ạ. Bây giờ cậu về trong cơ quan. Tám giờ cậu cháu ta lại làm việc. Năm phút sau có một anh đứng tuổi mang cơm nước ra cho tôi. Anh rất hà tiện lời nói nhưng lại hào phóng những nụ cười. Nghe giọng nói tôi biết anh là người Tày. Sau khi lo cho tôi mọi thứ, anh chào tôi ra về. Đúng tám gờ cậu tôi ra. Cậu mặc bộ quần áo màu gụ, đội mũ lá, vai đeo cái xắc cốt vải bạt. Tôi bỗng nhớ lại hình ảnh cậu trước đây bảy năm và thấy thật là khác biệt. Giá mà gặp nhau ngoài đường thì tôi khó mà nhận ra cậu. Việc đầu tiên trong buổi sáng hôm đó là cậu kiểm tra tôi về kiến thức văn hóa. Tôi còn nhớ rõ, tuy đã bỏ học ba năm: bài toán hình tôi chỉ làm trong mười phút. Liếc qua két quả, cậu khen tôi là thông minh. Nhưng khi cậu dùng tiếng Pháp để hỏi chuyện thì tôi lúng túng quá. Cậu nói rất chậm và thể hiện cả ngữ điệu nhưng tôi đỏ mặt lên và không sao trả lời được. 
- Không hiểu gì à? 
Tôi trả lời là có hiểu một số nhưng không sao trả lời nổi. Cậu mở cặp đưa cho tôi một cuốn Lecture1 (Sách tập đọc) cũ kỹ. Cậu bảo tôi dịch bài "Tiếng súng trong rừng", tôi lại dịch thành "Ánh lửa trong rừng". Gập sách lại, cậu hơi thất vọng: 
- Nếu cháu cố gắng lắm thì hai năm nữa mới có được bằng tú tài. Quân trường ba năm, xuất sắc ra hai mươi lăm tuổi cháu mới leo lên được cấp trung úy. Bao giờ "ông" lên được đại tá cho tôi nhờ! 
Hai cậu cháu tôi ôm nhau cười. Nhưng rồi cậu nhún vai trở lại tư thế nghiêm nghị. 
- Có cái ngẫu nhiên len loi qua hàng rừng cái tất nhiên. Biết thế nào được. Sẽ có những nguồn xúc tác khác giúp cháu nhanh đến đích. 
Cậu tôi kết thúc chuyện kiểm tra văn hóa sau một giờ nhưng cậu bắt tôi chép đi chép lại bài thơ Auore1 (Hừng đông bài thơ của Paul Valery. Trong sách này chúng tôi không phiên âm một số tiếng nước ngoài những tên riêng Anh Pháp...) cho đến lúc thuộc lòng không sai một lỗi. Mãi tới lúc ra đi tôi mới biết đó là một chiếc khuôn đúc mười chìa thoá thật mã khác nhau để tôi mang theo dùng cho hai mươi năm liên tục! Đó là mạch thần kinh duy nhất duy trì mối liên hệ hoàn toàn riêng biệt giữa tôi với tổ chức. 
Trong những ngày ở biệt lập, ngoài cậu ra còn ba thày giáo nữa đến dạy tôi. Các anh đến đúng giờ và chỉ nói đến các vấn đề chuyên môn đơn thuần, ít lời và chính xác. Tôi làm quen với tám loại máy ảnh trong đó có những loại cực nhỏ chuyên để sao tài liệu. Loại có ống kính tê lê chụp xa, loại chuyên dùng phim cực nhạy để chụp những động tử có tốc độ cao hay những nơi thiếu ánh sáng. Sau này tôi biết là những thứ đó đã rất lạc hậu so với kỹ thuật hiện đại, nhưng những nguyên lý của nó giúp tôi rất nhiều cho việc tiếp xúc với những khí tài tối tân hơn. 
Một giáo viên dạy tôi về nguyên lý các máy thu phát vô tuyến, về một số mẫu máy hiện đang thông dụng trong quân đội viễn chinh Pháp. Bài học còn nhằm giúp tôi tự lắp được máy thu phát bằng linh kiện thương mại trên thị trường. Tôi phải tập đánh móc để biến ngôn ngữ mật mã thành tín hiệu vô tuyến. Thật là bù đầu rối óc về những thứ này vì thời gian quá ngắn. 
- Vào nghề vừa làm vừa học - Cậu tôi nói - Đợt huấn luyện ngắn ngày cũng chỉ giúp cháu nắm được khái quát nội dung công việc. Các môn kỹ thuật phải có thời gian thực luyện. Thí dụ như bắn súng, võ thuật cháu phải tập hàng ngày. Phải dựa vào thao trường, xạ trường của địch mà tập. Ngay cả các môn ghi hình, thu âm, sao chép cũng đều có thể tận dụng phương tiện của địch mà học. Không ai một lúc giỏi ngay, nhất là những tình báo viên kiểu của ta không có một trường chính quy nào đào tạo họ. 
Cậu ân cần củng cố niềm tin của tôi. 
Rồi một bữa cậu đến báo cho tôi một tin rất quan trọng: Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương đã được ký kết và vùng tập kết của quân Pháp sẽ là Nam vĩ tuyến 17. Công việc của tôi sẽ đặc biệt khẩn trương. Chương trình học tập phải rút ngắn lại. Tôi được chụp ảnh, lăn tay và hoàn thành các loại giấy tờ cần thiết.

CHƯƠNG II

CẶP VỢ CHỒNG KHÔNG HÔN THÚ
Tôi nhớ đó là buổi sáng đầu thu rất đẹp. Không khí dịu mát. Những đợt gió may xào xạc làm lay động những đám bông lau trắng bạc bên bờ suối. Chương trình học tập của tôi đã kết thúc. Tôi mong mỏi đến cháy ruột công việc cụ thể mà cậu tôi sắp giao cho. Nhưng để chấp hành nguyên tắc và để cậu thấy tôi đã rèn luyện cho mình đức tình kiên nhẫn, khả năng chế ngự tình cảm, tôi đã cố giữ bộ mặt bình thản đến lạnh lùng. Và sự việc sẽ đến nó đã đến. Cậu tôi nhìn thẳng vào cặp mắt tôi hỏi: 
- Cháu có chờ đón nhiệm vụ không? 
- Thưa cậu có, cháu chờ mong từng giờ từng phút. 
- Rất tốt. Hôm nay cậu có thể nói cho cháu công việc cụ thể. Cháu phải nhớ lấy từng chi tiết vì không có cái gì được ghi chép để đem theo đâu. Cháu sẽ là: 
+ Một thanh niên yêu nước, chống chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, nhưng vì là con em nhà địa chủ quan lại nên cộng sản chẳng những kỳ thị giai cấp trong quân ngũ mà còn có nguy cơ bị gọi về nông thôn để chịu sự trừng phạt bằng hình thức đấu tố như đã diễn ra ở các vùng đang tiến hành cải cách ruộng đất. Vì vậy cháu đã đào ngũ. 
+ Cháu đã yêu một cô gái xinh đẹp, con một nhà buôn vàng ở Thanh Hóa. Cả hai rủ nhau trốn vào khu tập kết ba trăm ngày để di cư vào Nam. 
+ Cháu đi tìm anh là luật sư Phan Quang Ân để nương tựa vào anh. Cháu nhờ anh chị giúp đỡ để tiếp tục học hành, sau này có cơ hội lập thân. 
Như vậy cháu không đi một mình mà cùng đi với một người vợ giả (sự việc vừa ly kỳ vừa mắc cỡ làm cho mặt tôi nóng bừng lên). Người vợ này vừa là đồng chí, vừa là bạn và cũng là cấp chỉ huy trực tiếp của cháu. Đó là một đồng chí hoạt động có kinh nghiệm. Cô ấy sẽ giúp cháu trong mọi tình huống khó khăn và giữ vững dây liên lạc giữa cháu và tổ chức. Cháu cũng có nhiệm vụ giúp đỡ cô ấy trong mọi việc, đặc biệt là nơi trú ngụ để hoạt động. 
Cháu mới lên sân khấu mà cậu đã bắt cháu nhập vai vợ chồng thì khó quá. Có thể là chị, là em được không cậu? 
- Cậu đã suy tính tới mọi mối quan hệ. Chỉ có là vợ chồng thì mới thuận lợi. Nếu cháu nhận là em thì bịt mắt thế nào được chính anh ruột cháu. Nếu cháu nhận là bạn thì cô ta không thể đến ở trong nhà của cháu được. Còn mỗi người một nơi thì không tiện. Cậu không muốn cô ấy đến luộc cơ sở khác vì cậu coi mũi của cháu là độc lập, là nguyên thủy, là lâu dài nên cần tuyệt mật. 
- Vâng. 
- Đây không phải là chuyện ép duyên đâu - Cậu cười - Cô ấy có chồng có con rồi mà vẫn phải đóng vai ấy thì cháu, con trai, cháu lo gì! Cô ấy hơn cháu một tuổi. 
Cậu căn dặn tôi tất cả những nguyên tắc trong mối quan hệ công tác. Hai người chỉ có một mối quan hệ. Ba người ba mối quan hệ. Bốn người có sáu mối quan hệ. Mười người biết nhau thì lên tới bốn mươi lăm mối quan hệ sóng đôi, do đó rất dễ lộ. Chỉ cần một kẻ bội phản hoặc một anh yếu chịu đòn là chúng có thể lần ra cả cụm. Do đó càng ít biết nhau càng an toàn. Nhưng tất nhiên là muốn thông tin được nhanh chóng thì lại cần đến nhiều mối liên hệ. Vì vậy người ta phải tìm ra nhiều hình thức liên hệ. Liên hệ bằng hòm thư mật liên hệ một chiều, liên hệ qua trung gian, qua tín hiệu, ám hiệu, v.v... và hàng loạt kỹ thuật được đặt ra cho từng trường hợp. Cô bạn cháu là người có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này sẽ lo cho cháu. Được một người chỉ huy nhlưr vậy cháu còn kén chọn gì hơn? 
- Cháu đâu dám kén chọn. Cháu hỏi là mong cậu giải thích cho thêm được chừng nào hay chừng đó. Mai đây xa cậu chúng cháu biết hỏi ai. 
- Cháu cẩn thận thế là tốt. Chiều nay cháu sẽ được gặp và làm quen với cô vợ mới của cháu. 
Khi cậu tôi về rồi, ngồi một mình tôi mới thấy bồi hồi. Lúc đó tôi hai mươi mốt tuổi. Ngay chuyện yêu đương tôi cũng chưa kinh qua chứ nói chi đến chuyện vợ chồng. Thời học sinh, một vài nụ cười, vài cặp mắt đã làm tôi xúc động, tôi đau buồn, thương nhớ, tôi mơ ước, hy vọng. Có thể nói là tôi đã yêu. Nhưng đó chi là những mối tình một phía, mối tình thầm lặng, những "Phương trình vô nghiệm". Chưa bao giờ tôi dám ngỏ lời yêu đương với một cô gái. Ngay chuyện bạn bè trêu cợt cũng đã làm tôi xấll hổ bỏ chạy, nói chi đến chuyện tỏ tình. Tôi cứ cảm thấy mình lúng túng, vô duyên, nên việc kết bạn với các cô gái cùng lớp thôi cũng thật khó khăn. Đến nay bỗng nhiên tôi phải đóng vai một người chồng (đóng như thật mới chết chứ), không biết tôi sẽ xoay xở ra sao, sẽ đạt được ở mức độ nào? 
Tôi ngồi tưởng tượng ra người "vợ hờ" đó... cậu tôi nói "Cháu yêu một cô gái xinh đẹp...". Như vậy chắc chị ấy có đôi mắt huyền mơ mộng, cặp môi trái tiện, mái tóc đen dài tết thành đuôi sam. Còn mình thì thế này... thật chẳng ra thế nào. Bất giác tôi muốn chải đầu, muốn cạo mặt, muốn soi gương để tu sửa cái dung nhan một chút, nhưng ở đây lại không có gương lược... và đúng là sau đó tôi đã xuống suối soi mình trên một vùng nước đứng, để cố vuốt cho lái tóc khỏi dâng lên như "Hoàng tử có bờm"! 
Ăn cơm xong, tôi không đi nằm như mọi khi. Tôi ngồi thẫn thờ bên cửa sổ, thỉnh thoảng lại nhìn xuống con đường mòn ven suối. Tôi mong cậu tôi. Nói đúng ra tôi mong đến phút mở màn của một vở kịch. Vở kịch kéo dài theo suốt tuổi thanh xuân của tôi. 
Đúng hai giờ có hai bóng người thấp thoáng trên đường mòn ven suối. Cậu tôi đến chính xác như một cải đồng hồ. Người con gái đội một chiếc nón lá có buộc những nơ dù ngụy trang, vai đeo một chiếc ba lô nhỏ. Tôi lui vào trong, tim đập mạnh, vờ như không chú ý gì đến họ. Khi nghe tiếng cậu Đức gọi, tôi mới bước ra. Khuôn mặt cô gái xuất hiện khác hẳn với những mẫu người tôi vừa tưởng tượng. 
- Đây là Nghĩa - Cậu tôi giới thiệu - "chồng" của em đấy, bằng lòng không? 
Mặt cô gái đỏ bừng, hai tay che miệng cười khúc khích. 
- Còn đây là Dung, cấp trên trực tiếp của cháu đấy. 
Chúng tôi chào nhau rồi cùng vào nhà. Tôi đỡ giúp chị Dung cái ba lô đặt xuống bàn. 
- Từ bữa nay Dung sẽ ở đây - Cậu tôi chỉ vào cán buồng bỏ không phía đối diện - Hai ngày thuộc vai vợ chồng, các đồng chí sẽ chuyển địa điểm mới. 
Gọi là gian buồng cho sang chứ nó cũng chỉ ngăn cách với hai gian còn lại một cái vách nứa lửng lơ. Một tấm liếp làm cửa nhấc ra nhấc vào rất cơ động. Phía trong có một cái sạp nứa, lâu ngày không ai nằm, đầy bụi và mọt. Tôi định đi thu dọn chỗ cho chị Dung, nhưng cậu tôi ngăn lại: 
- Việc đó làm sau. Bây giờ các đồng chi nghe tôi phổ biến công việc chiều nay và ngày mai. 
Chúng tôi ngồi quanh cái bàn nứa, nghiêm túc nghe lời cậu. 
- Từ giờ phút này hai đồng chí phải đóng vai vợ chồng. Không phải biểu diễn cho những khán giả thân yêu của mình mà là công diễn trước mặt kẻ thù, không phải một vài giờ mà kéo dài trong nhiều năm tháng. Vì vậy sự thành bại có ý nghĩa sinh tử. Đã gọi là vợ chồng thì phải hiểu nhau rất sâu sắc và tỉ mỉ. Vì vậy hai người phải kể cho nhau đầy đủ hoàn cảnh gia đình mình, toàn bộ cuộc đời riêng tư. Đặc biệt phía gia đình Nghĩa có Phan Quang Ân là người trong nhà. Dung không được phép lầm lẫn sơ suất. Còn đời riêng của Dung thì Nghĩa chỉ cần biết những điều tôi nói là tạm đủ. Mối tình của hai người sẽ dựa vào những nét chủ yếu sau đây: 
Năm 1949 Phan Quang Nghĩa phiêu bạt vào Thanh Hóa, theo học lớp đệ tam ở trường Nguyễn Thượng Hiền (có thật). Trong thời gian đó quen cô Lê Phương Dung (bịa). Dung là con ông Lê Mạnh Hảo và bà Nguyễn Thị Tâm quê ở Thái Bình (có thật). Nhà ông Hảo có nghề kim hoàn, từng mở cửa hiệu ở Hải Dương. Hồi chiến tranh về Đống Năm vẫn buôn bán vàng bạc. Nam 1948 tản cư vào Hậu Hiền - Thanh Hóa, mở cửa hàng giải khát sống qua ngày (có thật), Nghĩa và Dung yêu nhau tha thiết (bịa), nhưng khi Nghĩa đi bộ đội (có thật) thì gia đình Dung không muốn cho hai người quan hệ với nhau nữa (bịa). Nhưng ý định của cha mẹ không ngàn cản được họ. Vì đóng quân gần nên bọn trẻ vẫn lén lút gặp nhau. Giữa năm 1953 nghe tin sắp phải chuyển quân xa, Nghĩa đến chia tay với Dung và trong lần ấy họ đã sống với nhau như một cặp vợ chồng (bịa). Nghĩa lên Diện Biên Phủ, Dung có mang, cô cố giấu mọi người bằng cách thắt bụng, nhưng cuối cùng sự việc cũng bại lộ. Cô bị gia đình dày vò, hắt hủi. Cả nhà phải lên Cẩm Thủy làm ăn để cách biệt với những người thân quen (bịa). Cô sinh con gái. Khi Nghĩa ở Điện Biên về đến Nho Quan, anh nhận được thư Dung (bịa). Trong thời gian này, Nghĩa bị cán bộ chỉ huy thành kiến, kỳ thị thành phần giai cấp địa chủ nên anh quyết định đào ngũ về Cẩm Thủy bí mật tìm gặp Dung và thăm con. Hai người gửi con lại cho ông bà ngoại, vào Hà Nội xin di cư vào Nam (bịa). 
Dó là những nét chủ yếu của một mối tình say đắm, ly kỳ. Các đồng chí sẽ thêm vào những tình tiết để thuyết phục được người nghe. Hai người phải hiểu thống nhất, kẻo nếu không may rơi vào tay địch, ông khai gà, bà khai vịt, nó sẽ tìm ra vấn đề ngay. Đừng bao giờ dùng cách mô tả hình ảnh, chúng lần theo đường dây tưởng tượng để lựa ra những điều trái ngược nhau. Tốt nhất là cứ nói sự kiện tròn trùng trục, kẻ hỏi cung sẽ rất khó xoay xở. 
- Cậu ạ, cháu thấy tình tiết có con không cần thiết, đưa vào thêm rắc rối ra. Cứ để đôi vợ chồng son có hơn không ạ? 
- Cô Dung đã sinh một lần. Trừ phi bây giờ lại sinh tiếp, nếu không pháp y sẽ tìm ra dấu vết này dễ dàng. Nếu không thống nhất trước, địch hỏi riêng từng người cháu trả lời sao? Sự thật là khi đi, Dung đã để cháu bé ở lại với ông bà Lê Mạnh Hảo. Và nếu địch có một cuộc thẩm tra, dĩ nhiên là phức tạp, thì tình hình cũng không đáng ngại. 
Sau khi đã bài trí các lớp lang của vở kịch cho chúng tôi học, cậu Đức tạm biệt, về cơ quan. Hai chúng tôi tiễn cậu ra cửa.
- Anh về ạ . 
- Cậu về ạ. 
Tôi thấy cậu quay lại nhìn Dung với cặp mắt vui vẻ: 
- Chào lại đi! Lấy cháu tôi phải chào tôi bằng cậu. 
Dung đỏ mặt và chị vui vẻ chào lại: 
- Cháu chào cậu ạ! 
Khi cậu đi rồi, chỉ còn hai đứa chúng tôi mới thấy lúng túng. Nhưng chỉ vài phút sau, chị Dung đã lấy được tự chủ. 
- Bây giờ ta quy ước cách xưng hô cho thống nhất, kẻo sau này tập lại khó, anh Nghĩa ạ. 
- Vâng, chị hơn tôi một tuổi. Lẽ ra tôi phải gọi chị bằng chị. Nhưng chúng ta đóng vai vợ chồng nên chị cho phép chúng ta gọi tên và xưng tên. 
- Bây giờ hãy bỏ qua chuyện tuổi tác. Trong quan hệ vợ chồng, chuyện đó không đáng gì phải nề hà. Gái hơn hai, trai hơn một mà. Em sẽ gọi anh bằng anh và xưng em, anh bộ đội nhé. Còn anh gọi và xưng với em như anh muốn. Tuỳ anh. Nhưng không bao giờ được lầm lẫn. 
- Nghĩa xin chấp hành mệnh lệnh của đồng chí chỉ huy. 
- Anh đùa thế là cậu Đức phê bình cho đấy - Chị cười - Em làm việc dưới quyền cậu gần hai năm em biết, cậu rất nghiêm khắc trong công tác. 
Tôi vội vàng xin lỗi chị. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ người con gái đó. Chị có mái tóc dài đen mềm mại như suối nước chảy trên đôi vai tròn lẳn. Khuôn mặt trái xoan trắng xanh lên trong bóng lá rừng già. Đôi gò má hồng và cặp môi đỏ thắm như tô son. Đôi mắt chị to đen, sâu thẳm dưới cặp lông mày xanh và đuôi này hơi uốn xuống làm cho vẻ mặt chị hơi tư lự thoáng một nét buồn man mác. Mỗi lần chị mỉm cười hai lúm đồng tiền hiện lên, cặp mắt long lanh bất chợt ánh lên một vẻ giễu cợt hóm hỉnh. Khi chị chăm chú vào một vấn đề gì, đôi lông mày hơi nhíu lại, cặp môi mím, mỏng đi như một lá liễn bộ mạt chị trở nên lạnh lùng, nghiêm khắc, bướng bỉnh và... khó hiểu. 
Tôi kể lại cho chị nghe chi tiết lai lịch gia đình nhà tôi và cuộc đời riêng từ lúc xa nhà. Những đoạn nào thú vị chị bắt tôi kể lại. Chị có biệt tài khuyến khích người kể bằng cặp mắt nhiệt tình và chăm chú. Chị biết đật những câu hỏi đúng lúc và rất có duyên. Chỉ sau vài giờ ngắn ngủi chúng tôi đã tự nhiên hơn, như một đôi bạn tâm đầu ý hợp. 
Chúng tôi phải buộc lòng tạm ngừng câu chuyện để chuẩn bị chỗ nghỉ cho chị. Tôi hăng hái quét dọn căn buồng, quơ mạng nhện, giũ chiếu cho sạch sẽ. Chị xếp gọn cái ba lô lên giá và buộc sơ lại cái phên che của. Tôi xuống bờ suối chặt cây tạm dựng lên một buồng tắm và những công trình vệ sinh riêng cho chị. Chúng tôi cùng làm, vừa làm vừa chuyện trò nu rít. Đôi lúc tôi buột miệng gọi chị xưng tôi liền bị chị phản đối: 
- Anh gọi lại đi cho em nhờ! 
Tôi vui sướng sửa lại và nhận được ở chị một nụ cười cổ vũ. Sau khi công việc hoàn thành, chị khen tôi: 
- Anh đúng là một ông chồng tận tụy và ngoan ngoãn!
- Liệu có được như "anh của chị" ở nhà không? 
- Lại "chị" rồi! - Chị uốn nắn tôi, nhưng rồi chị cũng thông cảm vì câu nói đó thật khó đặt - Chồng em rất ngoan. Chúng em ít có dịp sống gần nhau nên nỗi lần sum họp anh rất chiều em. 
Sau khi chúng tôi tắm giặt xong thì đồng chí phục vụ mang cơm ra. Anh chào chúng tôi bằng một nụ cười. Sau khi sắp đặt các thức ra bàn, anh gọi. 
- Mời anh chị vào xơi cơm! 
Chúng tôi vui vẻ cảm ơn anh. Khi chúng tôi ăn, anh lảng ra bờ suối cho chúng tôi tự nhiên. Bữa ăn chung đầu tiên có một món màng xào thịt, một bát, canh rau muống nấu khoai sọ, một nhúm muối ớt. Hai người đều nhường nhau thành ra món măng và mấy miếng thịt vẫn còn nguyên. 
- Ăn đi anh! Anh có ăn em mới ăn. 
Chị mạnh dạn gắp thức ăn cho tôi, chăm chút tôi như đối với trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng chị lại thúc giục: 
- Ăn đi để lấy sức anh ạ. Chúng ta còn nhiều công việc phải đương đầu. Một người lăn ra ốm là chết dở. 
Chúng tôi ăn hết hai suất cơm. Chị Dung thu các thứ định mang đi rửa thì đồng chí phục vụ xuất hiện. 
Anh ngăn chị Dung: 
- Các đồng chí uống nước đi - Anh đổi cho chúng tôi bi đông nước mới rồi đón lấy bát đĩa - Đây là nhiệm vụ của tôi. 
Tôi đốt lên cây đèn. Chị Dung lấy trong ba lô ra một gói kẹo, chị mời đồng chí phục vụ nhưng anh nhất định từ chối. Anh chào chúng tôi và xách mọi thứ đi luôn không sao giữ được. 
- Các anh ở cơ quan này rất "nguyên tắc". Chúng mình phải mời nhau vậy! 
Chúng tôi ngồi chuyện trò mãi đến khuya mới đi nằm. Tôi không bao giờ quên cái đêm kỳ diện đó. Trong càn nhà vắng vẻ giữa rừng, nằm đây tôi nghe rõ cả hơi thở của Dung, tiếng cọt kẹt của sạp nứa mỗi lần chị trở mình, nghe tiếng lá rừng xào xạc, tiếng suối nước rì rào xa vắng, tiếng côn trùng rân ran, tiếng con hoẵng giác lên những âm thanh cô đơn đến cháy lòng trong đêm đần thần... Tâm hồn tôi đôi lúc trào lên một nỗi buồn dịu ngọt, một nỗi trống trải mênh mông, nhưng mạnh mẽ hơn, áp đảo hơn vẫn là một niềm hạnh phúc, một niềm yêu thương trong trắng tràn ngập con tim vì từ nay bên tôi, trên một đoạn đường dài, tôi đã có một người bạn dịu dàng, thanh cao, xinh đẹp và tin cậy. Chúng tôi, một trai, một gái sẽ luôn luôn bên nhau mà vẫn phải giữ một khoảng cách ngắn ngủi, khoảng cách danh dự và đạo lý. Sự thách thức đó kích thích lý trí tôi. Tôi cảm thấy một niềm tự hào thiêng liêng tới mức thần thánh, không vấn vương nhột chút gì trần tục. Tôi thấy mình chứa đựng một sức mạnh, một niềm tin lớn lao mà chưa bao giờ tôi có được. Tôi mỉm cười trong bóng đêm, để cho những cảm xúc trong sáng đó tỏa hương vào giấc ngủ. 
Sáng hôm sau vừa bừng tỉnh tôi đã thấy bóng Dung nhẹ nhàng quét căn nhà của chúng tôi. Tôi vùng dậy và đã nhận được ở chị một nụ cười và lời thăm hỏi. 
- Anh Nghĩa ngủ ngon chứ ạ? 
- Dạ. Một giấc ngủ thần tiên! - Tôi đã giấu đi cái phần trăn trở của mình - Còn Dung? 
- Em... em cũng thao thức mất vài giờ. Phần vì lạ nhà, phần vì nhớ con - Dung cười nhưng tôi thấy mắt chị long lanh nhưng giọt nước. 
Ngày hôm đó Dung đã kể cho tôi nghe những nét chính về cuộc đời của chị. Quê em ở Thái Bình bên bờ sông Luộc, nhưng em sinh ra ở đất Hải Dương. Bố em làm thợ kim hoàn nên đã đi tìm chốn thị thành để kiếm đường sinh sống. Từ một người thợ khéo tay, cha mẹ em đã dành dụm mở được một cửa hiệu nhỏ, vừa làm vừa buôn bán thêm đôi chút thành ra cuộc sống cũng bấm khá, có của ăn, của để. Em là con gái lớn, sau em còn ba đứa nửa, hai trai một gái. Em được đi học từ nhỏ và thỉnh thoảng cũng được cha em dạy cho nghề nghiệp của gia đình. Cha em cứ khen em là sáng ý. Chẳng mấy chốc em phân biệt được tuổi vàng, hiểu được hạt kim cương nào đáng giá. Cha mẹ rất thương em, bàn nhau là nếu em theo đuổi được nghề nghiệp của ông cha thì sẽ gây dựng cho một cửa hiệu riêng. Nhưng cuộc chiến tranh bùng nổ đã cắt đứt dự định đó. Tản cư về Đống Năm, cha em vẫn làm nghề vàng bạc. Em tiếp tục theo học trung học. Năm 1949 Pháp chiếm Tả Ngạn, có nhiều người cùng nghề quay về Hà Nội, Hải Phòng sinh sống, nhưng gia đình em vẫn đi theo kháng chiến. Tất cả lại kéo nhau vào Thanh Hóa. Ở đây nghề kim hoàn ế ẩm, gia đình em vừa tăng gia vừa mở một quán nước. Em học trường Nguyễn Thượng Hiền và ở đây em đã lấy chồng rồi bước vào con đường hoạt động. 
- Dung lấy chồng năm nào? 
- Năm năm mươi hai, lúc em vừa tròn hai mươi tuổi. 
- Sớm thế? 
Chị cười ngượng nghịu: 
- Không sớm đâu. Hồi mười sáu, mười bảy đã có nhiều người nhắm nhe. Nếu em bằng lòng thì cha mẹ đã gả rồi. Nhưng năm hai mươi em đã gặp một người con trai mà em không sao từ chối được. Chúng em yêu nhau và lấy nhau. Cùng năm đó anh xin cho em vào công tác. Hoàn cảnh hoạt động không cho phép vợ chồng được gần nhau nhiều. Hai đứa cứ sống như Ngưu Lang Chức Nữ ấy. 
- Bây giờ anh công tác ở đâu? 
- Cũng như chúng ta thôi - Nét mặt chị trở nên buồn bã - Không có địa chỉ? 
- Thế tên anh là gì? 
Chị nhìn thẳng vào tôi, cặp mắt long lanh và một nụ cười tinh nghịch: 
- Tên chồng em là Nghĩa. 
- Cũng tên là Nghĩa? 
- Vâng, Phan Quang Nghĩa. Từ nay em chỉ có một người chồng duy nhất là Phan Quang Nghĩa thôi! 
Câu nói này làm tôi nóng bừng mặt vì xấu hổ. Điều đó nhắc cho tôi một nguyên tắc: không nên tò mò vào nhưng lĩnh vực không cần thiết. Mặt khác tôi cũng rất sung sướng vì chị đã đặt tên tôi vào một vị trí thật đáng mơ ước, thật đáng tự hào, dù nó chỉ là một ảo ảnh. 
Tuyệt nhiên Dung không hề đả động đến bất cứ một công việc gì về tình báo mà chị đã làm hoặc cùng làm với ai. Chị cũng không kể về bất cứ chiến công nào. Những chuyện đó có thể báo chí đã đăng vào một ngày nào đó. Bản thân tác giả của những chiến công ấy cũng phải mai danh ẩn tích cho đến khi ngã xuống. Họ là những chiến sĩ vô danh đầy lãng mạn. 
Ngày hôm đó chúng tôi cùng ngồi thêu dệt cho mối tình tưởng tượng của mình những chi tiết thật hợp lý và đẹp đẽ theo đúng đường dây kịch bản của cậu tôi đã chỉ thị. Sau đó chúng tôi thay nhau đóng vai thẩm vấn và bị cáo để kiểm tra lại trình độ ứng đối của nhau ra sao. Một sơ suất nào về lô-gích, về pháp lý dù nhỏ đều được phân tích để sửa chữa cho thật chặt chẽ, thật thống nhất. 
Đến chiều cậu Đức ra, chúng tôi trình bày lại toàn bộ nội dung đã làm trong ngày. Cậu cũng phải ngạc nhiên và khen chúng tôi có nhiều sáng tạo đã làm cả những điều cậu chưa chỉ bảo. Cậu bổ sung cho một số tình hình đất nước lúc đó. 
- Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết nhưng Mỹ đã không ký vào bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị. Đa-lét, ngoại trưởng Mỹ tuyên bố lấy làm tiếc về một vài yếu tố của thỏa ước ngừng bắn. Còn Trần Văn Đỗ, đại diện của chính quyền tay sai thì khóc và cũng không chịu ký. Xem thế đủ thấy đường lối của Mỹ đã thất bại. Nhưng liệu chúng có cam tâm chấp nhận hay không. Diệm là con bài của Mỹ đang củng cố quyền lực. Mỹ đang lôi kéo đồng minh và chư hầu thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) tạo chỗ dựa cho những tên bù nhìn trên bán đảo Đông Dương. Những hành động đó buộc chúng ta phải hết sức cảnh giác với âm mưu phá hoại hiệp định hòa bình của chúng. Ngày mai mồng 1 tháng 8, Hiệp định ngừng bắn sẽ có hiệu lực trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng bọn Việt gian ở Hà Nội đang gào thét thành lập Trung đoàn tử thủ Cố đô! Trong bản danh sách những tên đầu sỏ ký vào lời kêu gọi, ta thấy có Nghiêm Xuân Hảo, Nguyễn Đăng Thạc, Phan Quang Ân, Hoàng Cơ Bảo rồi Đỗ Thúc Vượng... Chúng sẽ tử thủ ra sao khi quân Pháp rút đi thì ta chưa tưởng tượng nổi. Nhưng hiển nhiên là bọn này đang cố kiếm một cái vốn chính trị nhân buổi tranh tối tranh sáng này để đặt giá cho cái thân tôi đòi của chúng trước vị chủ mới là người Mỹ. Ta chưa lường hết được sự phát triển phức tạp của tình hình. Nhưng ta phải tiên liệu, phải chuẩn bị để đánh bại mọi âm mưu của chúng. Cuộc hành quân "ngược chiều" của hai cháu sắp diễn ra là để đáp ứng cho những mục tiên đó. Các cháu sẽ xuất phát vào ngày hòa bình đầu tiên và tiến vào cuộc chiến đấu trầm lặng. Cậu hiểu được sự dũng cảm của các cháu. Sau tám năm kháng chiến, nhân dân ta tha thiết mong muốn độc lập thống nhất Tổ Quốc theo tinh thần của Hiệp định hòa bình đã ký kết. Cậu cháu mình đều không muốn lòng dũng cảm bị thách thức, không muốn một lần nữa phải "tuốt kiếm ra khỏi vỏ". Nhưng ước vọng thiêng liêng của chúng ta không hoàn toàn tùy thuộc ở nơi mình, nó còn lệ thuộc vào cả sự khôn ngoan hay ngu ngốc của kẻ thù. Trong mọi tình huống cậu đều mong mỏi các cháu phải tỏ ra là người chiến sĩ đáng tin cậy của cách mạng. 
Những lời giản dị và thân tình của cậu tôi đã in sâu vào trí nhớ chúng tôi. Nó cổ vũ chúng tôi cả những khi hiểm nguy đe doạ hay những lúc bị dục vọng cám dỗ. 
Hôm sau, một chiếc com-măng-ca của cơ quan đưa ba cậu cháu tôi về trạm 42 ở Trại Cờ. Đây là đầu mối giao thông thường xuyên đưa đón cán bộ ta ra vào vùng địch hậu. Phần lớn trạm bố trí khách trong nhà dân. Riêng chúng tôi được ở nhà cơ quan. Ở đây chúng tôi tiếp nhận một số quần áo và một số giấy tờ cần thiết. Đặc biệt cậu Đức còn chụp cho chúng tôi rất nhiều kiểu ảnh. Phần nhiều là những khung cảnh của một cuộc tình duyên thơ mộng. Người "đạo diễn" đã cố tìm nhưng góc độ, những bối cảnh sao cho có nhiều nét giống xứ Thanh. 
Lịch hoạt động cụ thể của chúng tôi như sau: 
Ngày 2 tháng 8, chúng tôi về Hà Nội, nhanh chóng tìm tới nhà anh ruột tôi thăm dò tình hình. Nếu họ di cư thì xin cuốn gói theo họ. Trước khi đi vợ chồng tôi sẽ về quê thăm mẹ và thăm chị tôi. 
Ngày 15 tháng 8 cậu tôi cũng sẽ có mặt ở quê tôi để sơ bộ nắm tình hình và chỉ đạo những bước tiếp. Nếu do một hoàn cảnh cấp bách không thể về được quê thì chị Dung sẽ phải để lại báo cáo bằng mật mã ở Z.01.

CHƯƠNG III

CUỘC HÀNH QUÂN TRONG HÒA BÌNH
Sáng mồng 3 tháng 8 năm 1954, người ta thấy một đôi trai gái đứng chờ xe khách ở cây me còng gần đầu cầu Phủ Lỗ. Anh con trai mặc chiếc áo sơ mi màu be, quần tơ-rô màu gạch sẫm, chân đi săng đan da. Người con gái mặc áo cánh trắng, quần láng đen, cạp tóc dài. Hành lý của họ mang theo vẻn vẹn chỉ có chiếc làn xách tay, trong đựng mấy thứ lặt vặt cùng nải chuối tiêu cắt rời. Cách ăn mặc của họ có vẻ dân "phố huyện" hơn là người thành thị. Nghe cách xưng hô và những cái nhìn âu yếm xoắn xuýt của đôi trai gái, những người khách chờ xe biết ngay họ là một cặp vợ chồng. 
Bên kia cầu là đồn Phủ Lỗ. Nghe nói cách đấy không xa còn có trụ sở của Uỷ ban giám sát đình chiến, và Phái đoàn Quân sự hai bên. Không khí vui tươi của những ngày hòa bình đầu tiên đã tràn ngập thị trấn này có thể đã làm cho việc gác sách của đám binh lính trong đồn trễ tràng hơn. Người ta nói chỉ có mấy ngày thôi mà đã có tới mấy chục bảo chính quân, nghĩa dũng quân trốn trại về nhà. Họ lo ở lại sẽ phải theo quân Pháp vào Nam Kỳ. 
Mấy tên lính đen trắng lẫn lộn, không mang vũ khí từ bên kia cầu đi sang. Theo thói quen, mọi người chờ xe vội vàng mở túi lấy "tịt" ra cầm sán ở tay. Cặp vợ chồng trẻ cũng làng theo. Họ còn có thêm cả tờ giấy phép của lý trưởng xã Vân Lại cho đi án giỗ ở Hà Nội. Toán lính tới nơi, mọi người vội chìa giấy ra, nhưng bọn này vui vẻ xua tay: 
- Tốt, tốt! Không phải xem. Hết chiến tranh rồi. 
Chúng kéo nhau tới một tiệm ăn ở đầu phố. 
Thế là chín năm trời rồi tôi mới lại trở về Hà Nội. Chiếc xe hàng lăn nhanh trên con đường nhựa láng bóng. Hai bên những cánh đồng hoang đầy cỏ dại trải ra ngút tầm mắt. Vùng trắng cứ gợi lại cho tôi cảm giác về một hành tinh chết khi đọc cuốn truyện cho trẻ con từ hồi nhỏ. Cứ vài trăm mét lại có một chiếc lô cốt cao lênh khênh với hàng lỗ châu mai như những con mắt đen ngòm nhìn chằm chằm ra xung quanh. Càng gần Hà Nội, đồn bốt càng dày, xe pháo càng lắm và đã có nhưng làng mạc xanh tươi. Xa xa đã thấy ống khói của nhà máy gạch Hương Ký dựng lên bầu trời. Tim tôi đập rộn khi cầu Long Biên hiện ra. Nhận ra vẻ lạ lùng và xúc động của tôi, chị Dung vội ấn khẽ vào lưng tôi và nói với tôi về chuyện may sắm! 
Xuống Bến Nứa tôi cảm thấy thành phố nhỏ lại so với hồi tôi còn thơ ấu. Chị Dung gọi xích lô. Hai chúng tôi tới luộc gia đình cơ sớ ở ngõ Chân Cầm. 
Một bà cụ gần bảy mươi tuổi ra mở cửa. 
Nhận ra Dung, cụ vui vẻ đon đả: 
- Các cháu đã ra đấy à. Bà mong mãi! 
Chúng tôi vào nhà rất nhanh. Tôi còn bỡ ngỡ nhưng Dung thì đã quen thuộc lắm. Chị giới thiệu với với bà cụ. 
- Lần này con mới đưa nhà con ra chào bà? 
- Thế cháu rể của bà tên là gì? 
- Con tên là Nghĩa ạ. - Biết thế để bảo cho trẻ nó biết nó gọi - Cụ quay vào nhà gọi đứa cháu nhỏ - Nguyệt à, đây là anh Nghĩa, chồng chị Dung cháu nhớ chưa? 
Dung đưa tôi vào nhà trong để rửa chân tay thì cũng đến giờ hai vợ chồng bác Bách (con trai lớn của bà cụ) đi làm về. Thấy chúng tôi, bác trai reo lên vui vẻ: 
- Cả nhà mong các cháu ra. Hòa bình rồi! Sắp giải phóng rồi, sung sướng quá? Theo báo đăng thì mồng mười tháng mười này quân Pháp sẽ rút hết mà. 
- Vâng ạ. Chúng cháu về trước để chuẩn bị cho ngày ấy đấy ạ. 
- Tôi biết, việc to lớn như thế không chuẩn bị sao được. Đã có chỉ thị cho các công đoàn và anh em công nhân viên chức trong các công sở phải đoàn kết đấu tranh giữ lại tài sản, thiết bị máy móc không cho chúng mang đi. 
- Thằng Hai nhà tôi nếu còn sống chắc chuyến này được đoàn tụ gia đình đây! 
Bà cụ hân hoan bộc lộ niềm mong đợi. Kẻ địch sắp cuốn gói nên mọi niềm vui sâu kín đều muốn bung ra hết. Ngoài đường người ta đã nói đến độc lập, đến giải phóng, đến cụ Hồ một cách công khai bất chấp lính kín hay cảnh sát, huống chi trong nhà, cơ sở của cách mạng suốt những năm kháng chiến. 
Bữa cơm hôm đó rất thịnh soạn. Bác Cả còn mở rượu ra ép chúng tôi nâng cốc chúc mừng chiến thắng. Chúng tôi cũng uống một chút tượng trưng rồi xin cáo lỗi vì tối nay còn phải đi có chút việc. Mọi người thông cảm và khuyên chúng tôi nên về sớm. Lúc này không sợ mật thám bằng binh lính. Sắp rút đi nên chúng hay tranh thủ cướp bóc, bắt cóc đòi chuộc tiền, cưỡng bức phụ nữ, v.v... 
Tối hôm ấy chúng tôi tìm đến nhà anh Ân tôi. Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà ở cuối phố Duvigneau anh chị tôi ở hồi năm 1949. Đáp tàu điện đến Chợ Hôm, chúng tôi xuống đi bộ tiếp. Không khí Hà Nội thật khác thường. Nhiều hiệu buôn lớn đã đóng cửa. Binh lính Pháp đổ ra đường phố, tụ tập đầy ở các "ba", các tiệm giải khát. Có thể chúng vui mừng được thoát chết vì cuộc chiến đã kết thúc. Cũng có thể chúng đi tìm những nguồn vui xả láng ở mảnh đất xinh đẹp mà chúng buộc lòng phải ra đi. 
Cổng ngôi nhà 263 đóng kín. Cửa sổ trên các tầng lầu tối om không có ánh đèn. Tôi nhìn qua khe cổng thấy gian nhà phụ gần ga-ra có ánh điện. Sau một phút phân vân tôi bấm chuông. Bấm đến lần thứ ba lưới có tiếng của một người đàn bà nhiễn tuổi hỏi vọng ra: 
- Ai hỏi gì đấy? 
- Xin làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút. 
Đèn ga-ra bật sáng. Bóng người đàn bà chậm chạp bước ra: 
- Ông hỏi ai? - Giọng bà ta hơi sẵng chứng tỏ bà không muốn tiếp chuyện. Ánh đèn chiếu từ đằng sau nên tôi không thấy rõ mặt. 
- Bà làm ơn cho tôi hỏi thăm ông Phan Quang Ân còn ở đây không? 
- Ông ta không có đây - Nói xong bà ta quay ngoắt vào không thèm mở cổng. 
- Bà làm ơn... - Bà ta đã khuất vào khuôn cửa bên trong. 
- Bỏ cuộc chăng? - Chị Dung hỏi nhỏ tôi. 
- Không, tôi sẽ bấm chuông nữa, buộc bà ta phải tiếp chuyện. 
Biện pháp quyết liệt của tôi quả là có hiệu lực. Người đàn bà quay ra với dáng điệu bực dọc thực sự. 
- Đã bảo ông Ân không có ở đây mà còn bấm chuông mãi. 
- Bà không mở cửa cũng được, nhưng xin cứ đứng lại cho tôi hỏi vài câu thôi. Nếu ông Ân vắng nhà thì cho tôi hỏi bà Ân hoặc con cái họ cũng được. 
- Cả hai ông bà đều không còn ở đây nữa. Họ làm gì có con cái mà hỏi. 
- Thế bà có thể chỉ giúp tôi địa chỉ mới của họ. 
- Tôi không biết. Ông bà vắng nhà hơn một tuần nay và không cho tôi biết là đi đâu. Xin ông đừng hỏi gì thêm nữa. 
Lần này bà ta quay vào một cách kiên quyết và tàn nhẫn. 
Chúng tôi rất buồn. Mở màn chiến dịch đã có trắc trở. 
- Mai chúng ta sẽ đến thẳng nhà ông Cự Phách để hỏi. 
Tôi và chị Dung đành quay về Chân Cầm. Gia đình bác Bách vẫn ngồi chờ chúng tôi. Cả nhà lại quây quần trong phòng khám nói chuyện đến mlrời một giờ đêm. 
- Bây giờ đã khuya, anh chị đi nghỉ kẻo mệt. Tôi đã thớt xếp căn buồng trên gác - Bác Bách tươi cười nhắc chúng tôi - Cứ tự nhiên như ở nhà, không kiêng kỵ gì đâu. 
- Thôi đê cho nhà con ngủ trên ấy, con nghỉ dưới này với bà và em Nguyệt. 
Bà cụ cười tủm tỉm: 
- Tùy đấy. Chị Dung muốn nằm dưới này với bà cũng được. 
Thế là chúng tôi thoát được một tình thế khó xử. 
Hồi năm 1944 tôi nghe nói ông Cự Phách có hàng chục ngôi nhà ở Hà Nội, nhưng tôi chưa đến nơi nào ngoài ngôi nhà ông dành cho anh chị tôi. Nhà in Á Đông chỉ còn lơ mơ trong trí nhớ. Tôi đã đi dọc phố Hàng Bông để tìm và tôi đã nhận ra nó một cách dễ dàng. Một ngôi nhà không lớn lắm, có cửa sắt di động, có lối cho xe tải chạy thẳng vào xưởng. Tường chắn nóc còn hàng chữ nổi, lâu ngày mưa nắng làm hoen ố: Asie Orientale-Imprimerie1 (Nhà in Á Đông). Ngôi nhà cũng đóng của im ỉm. 
Tôi bấm chuông. Một phút sau có tiếng chân bước và tiếng khóa cửa lách cách. Cánh cửa sắt hé mở. Một người đàn ông đầu hói, đeo kính lão xuất hiện. 
- Chào ông. Xin ông làm ơn chỉ giúp tôi, đây có phải nhà ông Cự Phách không ạ? - Tôi lễ phép hỏi. 
Người đàn ông nhìn tôi từ đầu đến chân. 
- Anh quen ông ta à? 
- Dạ không quen lắm, nhưng tôi có chút việc. 
- Đây là xưởng in của ông nhưng ông ở chỗ khác và ít khi lại đây. Không phải ai muốn gặp là ông ta tiếp đâu. Tôi không phải người tò mò. Tôi hỏi là để bày cách cho anh thôi. 
- Xin cảm ơn ông. Tôi muốn gạp Luật sư Phan Quang Ân là con rể ông Cự Phách. Nếu ông biết địa chỉ nhà riêng, xin ông làm ơn chỉ giúp. 
- Anh là thế nào với luật sư - Tôi là người bà con... là em ạ. 
- Họ đi Sài Gòn cả rồi, thật đáng tiếc. Xử lý thường vụ của họ hiện nay là ông Lê Hàm ở 34B Hàng Đẫy. 
- Vừa mới ký tên tên gọi thành lập Trung đoàn tử thủ cố đô xong mà đã đi nhanh thế. - Tôi cười làm cho ông già cũng cười theo. 
- Họ xui người khác thôi còn họ có dám tử đâu mà thủ. 
- Thưa ông, ông có biết địa chị của họ trong Sài Gòn không ạ? 
- Buồng 115 Khách sạn Europe đường Ca-ti-na. Điện thoại 45276. - Ông già nhắc lại một lần nữa cho tôi ghi đầy đủ. 
Tôi cảm ơn và chào ông. 
Để xác minh lại tin tức trên, tôi tìm đến ông Lê Hàm và ông này cũng cho biết tương tự. Tôi còn hỏi ông thêm: 
- Ngoài ra họ còn địa chỉ nào khác nữa không, thưa ông? Tôi nghĩ là địa chỉ này vẫn chưa phải là cố định. 
- Đúng như vậy. Chắc là họ đang chọn mua hoặc thuê nhà riêng. Ngay từ hôm nay anh có thể điện cho họ biết và yêu cầu họ điện trả lời anh hàng ngày hoặc khi nào họ đổi chỗ. Ôi những người đó tìm họ có khó gì đâu. Vào sài Gòn anh có thể đến Tòa án tối cao. Đến trụ sở của Mặt trận Liên minh chống cộng, có thể tìm địa chỉ trong tập danh bạ các chủ tài khoản 9A42, 6B50, 3C16 ở nhà băng Đông Dương, cùng lắm thì anh đăng báo... 
- Vâng. Tôi cứ hỏi phòng xa thôi chứ chắc là sẽ tìm thấy. 
Tôi chào ông Lê Hàm và trở về báo cáo lại toàn bộ tình hình với chị Dung. Sự việc tuy không xảy ra đúng như điều mong muốn, nhưng cũng không phải là thất bại hoàn toàn. 
- Công việc tìm anh Ân ở Hà Nội đã kết thúc. Chúng ta chuẩn bị bước thứ hai. Anh ở lại Hà Nội một mình chờ em ba ngày nhé. Cậu Đức cho phép em về thăm con một lần nữa. Em cũng muốn cả anh cùng đi, nhưng xét cho cùng thì sợ phía gia đình nhà chồng lại có chuyện này chuyện khác. Em mong anh thông cảm cho em nhé. 
Đôi mắt dịu hiền của Dung nhìn thẳng vào mắt tôi và chị đã dễ dàng nhận được ở tôi một sự đồng tình hoàn toàn. 
- Nghĩa hiểu ý Dung - Tôi nói nhỏ - Nghĩa muốn hỏi; anh ấy có hay ghen không? 
- Ồ không, không đâu - Dung cười - Anh cứ yên trí. 
Chỉ vắng chị có ba ngày mà tôi cảm thấy mình cô đơn trơ trọi quá. Mặc dù gia đình bác Bách rất nhiệt tình với tôi nhưng cũng không sao bù đắp được sự thiếu hụt này. Mặt khác, tôi cũng bồn chồn mong mỏi đến ngày về thăm mẹ và thăm chị tôi nữa. Lòng tôi cứ như lửa đốt. Tôi cố luyện tập giữ vẻ bình thản. Đôi lúc tôi cũng hòa vào dòng người ngoài đường phố để làm quen trở lại với cái dáng điệu thời học sinh và cố trút đi những cử chỉ thiếu tự nhiên của người mới ở rừng về. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy mình lúng túng vụng về quá. 
Hôm cuối cùng tôi cứ ngồi ngong ngóng, thỉnh thoảng lại nhìn ra cửa đến nỗi bé Nguyệt cũng phát hiện ra. 
- Anh nhớ chị Dung quá hay sao mà trông anh thẫn thờ ra thế? 
Tôi ngượng chín mặt nhưng vẫn chối: 
- Đâu nào... anh cũng có mong thôi chứ không phải nhớ? 
Bà cụ nghe hai anh em chuyện trò cũng phải bật cười. 
Dung đã lên đúng hẹn. Nỗi vui mừng của tôi cũng làm cho chị đỏ mặt và cảm động. Tối hôm đó hai chúng tôi ra ngồi với nhau bên hồ Hoàn Kiếm, tôi mới thăm hỏi tình hình của gia đình Dung. 
- Bố mẹ và các em vẫn được bình yên. Em cũng chưa dám nói là em phải đi nhưng hình như mẹ em cũng cảm thấy điều đó. Có lẽ em đã dặn đi dặn lại là ông bà, các cậu, các dì phải trông cháu ra sao, phải chú ý đến sự học hành của nó như thế nào mạc dù con bé mới một tuổi! Ôi em thương con quá anh ạ. Con mới xinh làm sao, ngoan làm sao. Nếu như anh gạp được con, em tin rằng anh cũng sẽ rất thương yêu nó. Con còn thơ dại quá, nó chưa biết mẹ đi xa, đi lâu, cử toét miệng ra cười trong lúc mrởc mắt em tràn ra. Hòa bình rồi, sắp giải phóng rồi, bố mẹ em cứ mong mỏi mẹ con bà cháu xum họp. Nhưng biết nói với người thân yêu của mình như thế nào để tất cả cùng hiểu như mình, cùng chia sẻ với mình. Anh ạ, ngay cái điều đó em cũng chưa thể làm được. 
Qua ánh đèn mặt Dung đẫm nước. Tôi thấy quý chị vô cùng. Tôi thầm phục, trong con người mảnh dẻ dịu dàng đó đã chứa đựng biết bao nhiêu tình cảm cao quý, bao nhiêu sức mạnh của lý trí, bao nhiêu sự tận tụy trưởng thành với Tổ Quốc. Tôi muốn cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của chị với một tấm lòng trong trắng của một người đồng chí, một người bạn để được cùng chung với chị nỗi riêng tư nhưng tôi không dám. Có thể do tính nhút nhát mà tôi đã chàng làm đlrợc một chút gì. Ngay một lời an ủi tôi cũng kllông tìm ra . Tôi thấy rằng tất cả những ngôn ngữ tốt đẹp nhất mà tôi có thể diễn đạt được cũng trở thành tầm thường, tllành vô nghĩa trước nỗi buồn của chị. Lâu lắm tôi mới nói được một câu: 
- Dung ạ, nhất định một ngày nào đó chúng ta sẽ được gặp con. Nghĩa linh cảm thấy điều đó. Con vắng mẹ nhưng đã có bố. Thỉnh thoảng bố sẽ về thăm cũng bù đắp lại được một phần. 
Không ngờ lời an ủi của tôi ở điểm này nó lại gợi nhớ đến một nỗi buồn khác. Dung ngước mắt nhìn tôi và như cố giấu một tình cảm chua xót: 
- Nhưng bố mẹ luôn luôn ở bên nhau, có ai được về thăm con nữa đâu? 
Câu nói của chị như nhắc nhở tôi về "nguyên tắc quy định" nhưng sự lẫn lộn giữa "thực và ảo" giữa "sân khấu và cuộc đời" làm cho tội thêm lúng túng. Hai đứa ngồi mãi đến lúc sương thu làm ẩm đôi vai áo mới trở về nhà. 
Ngày 10 tháng 8 theo đúng lời hẹn của cậu Đức, hai chúng tôi lên đường về thăm quê. Xe ô tô khách chạy theo quốc lộ chừng bốn mươi ki-lô-mét thì chúng tôi xuống để đi bộ tiếp độ nửa giờ nửa. Đây đã là vùng mới giải phóng. Chúng tôi không gặp một sự cản trở nào. Không khí hòa bình lan tỏa vùng đồng bằng. Sau năm năm xa cách, hình ảnh quê hương tràn ngập tâm hồn tôi một niềm vui rạo rực. Tôi đã gặp những người làng đầu tiên. Họ đều ngỡ ngàng khi nhận ra tôi. Tôi đã trở thành một chàng trai vạm vỡ khác xa cái tầm vóc lêu đêu của một cậu học trò thuở trước. Chúng tôi bước vào sân, gọi mẹ mà mẹ tôi vẫn sửng sốt thẫn thờ chưa biết chắc là tôi. 
- Mẹ ơi, con đây mà, Nghĩa đây mà. 
- Trời ơi con tôi? Huệ ơi, Nghĩa nó về, Huệ ơi, em con về! 
Mẹ tôi ôm lấy tôi và òa lên khóc. Mẹ quên cả hỏi đến người bạn đường của tôi. 
- Mẹ ơi, đây là Dung, bạn của con mẹ ạ! 
Mẹ tôi quay lại phía chị. Dung chào mẹ tôi: 
- Con chào bác ạ. 
- Chào con. Bác mừng quá, tha lỗi cho bác nhé. Vào nhà đi các con. 
Mẹ dắt tay chúng tôi vào nhà. Cùng lúc ấy chị Huệ từ vườn sau chạy về. 
- Chị Huệ! 
- Nghĩa! 
Dung đứng chứng kiến cảnh ba mẹ con tôi đều trào nước mắt trong niềm vui sum họp. 
- Bây giờ con ở đâu hả Nghĩa? Mấy năm rồi mẹ bạt tin con. Năm ngoái mẹ nhận được thư cậu Đức nói con đã đi bộ đội. Cậu ghi cho cái địa chỉ. Chị con viết liền ba lá thư nhờ người ra vùng tự do gửi hộ mà chẳng thấy con trả lời. 
- Con đi chiến dịch mẹ ạ. Vả lại địa chỉ của con cũng luôn luôn thay đổi. Chúng con mới ở chỗ cậu Đức con về đây. Cậu hẹn mại sẽ xuống thăm gia đình nhà ta đấy. Nhưng mẹ đừng nói chuyện này với ai mẹ nhé. 
Mẹ tôi hơi ngạc nhiên: 
- Có chuyện gì mà phải giấu mọi người hả con? 
- Cậu Đức bây giờ "to" rồi. Gia đình nhà ta lại thuộc "tầng lớp trên", mình nói ra e không tiện cho cậu, thế thôi. Còn chuyện tình cảm riêng tư trong nhà thì chẳng có gì là bí mật đâu mẹ ạ. 
- Thế bao giờ con lại đi, hay hoà bình rồi con ở nhà hẳn với mẹ. 
- Con chỉ được ở nhà ba ngày thôi mẹ ạ. 
Nét mặt mẹ tôi hơi buồn, nhưng bà vẫn nói: 
- Nhìn thấy con được như thế này là mẹ mừng rồi. Con ở nhà với mẹ càng lâu càng vui, nhưng nếu có công việc mà con phải đi thì mẹ cũng yên tâm. 
Có chị Huệ tíu tít thăm hỏi nên Dung cũng đỡ lúng túng trong cái không khí hội ngộ của mẹ con tôi. 
Bấy giờ tôi nhìn kỹ lại mẹ tôi. Tóc mẹ đã bạc nhiều tuy nước da vẫn còn đẹp. Hàm răng đen nhưng nhức nhất còn nguyên vẹn. Ở tuổi đó mẹ tôi là người khỏe. Sau này tôi biết rằng mẹ tôi vẫn đi làm đồng ruộng như những bà nông dân đứng tuổi khác. 
Chỉ có chị tôi là thay đổi nhiều. Từ một cô học sinh thành thị, quần trắng áo dài, qua mấy năm kháng chiến đã trở thành cô gái nông thôn thực sự. Chị búi tóc, mặc áo nâu gụ, quần láng đen. Đôi bàn tay chị chai ráp. Chị tôi cũng cày cấy lao động và chiến đấu trong đội du kích xã như nhiều cô gái vùng quê tôi. Đã có lúc mẹ tôi thương chị bảo chị vào Hà Nội tìm anh Ân tôi thế nào anh chẳng cưu mang cho học hành tiếp tục, nhưng chị tôi nhất quyết không đi. Tính chị tôi giản dị và rất khí khái. Ngoài tấm lòng yêu nước, yêu quê chị tôi rất thương mẹ nên không muốn sung sướng lấy một mình. Bây giờ chị đã ở tuổi hai lăm. Giá như những cô gái nông dân khác có lẽ đã chồng con từ lâu rồi. Chiến tranh đã làm lỡ dở nhiều số phận. Chị không phải là một cô gái xinh đẹp, nhưng khỏe mạnh, nước da bánh mật, khuôn mặt gọn gàng dễ coi. Chị ăn nói đậm đà có duyên và đã được lọc hành qua bậc trung học. Tôi cũng lo lắng nếu sau này cải cách ruộng đất, gia đình tôi trong diện địa chủ quan lại thì chuyện chồng con của chị sẽ ra sao? Tôi bỗng thương chị tôi quá. Chờ lúc chỉ có hai chị em, chị hỏi nhỏ: 
- Em với Dung là thế nào với nhau đấy? 
- Là bạn chị ạ! - Tôi cười - Bạn rất thân đấy! 
- Chị cũng nghĩ là rất thân... Có thể còn hơn thế nữa kia! Chị thấy đẹp đôi lắm. Nếu có gì em nói cho mẹ và chị cùng vui với. 
- Chị thấy đẹp đôi lắm à? 
- Ừ đẹp lắm... Chị còn muốn nói Dung cũng làm cho chị mê rồi đấy! 
- Dung hơn em một tuổi đấy chị ạ, với lại chị còn chưa có gì nữa là em! 
- Một tuổi có đáng gì. Còn chuyện của chị thì em đừng lo, đừng bận tâm. Chị không lấy chồng đâu. Chị đi thì mẹ ở nhà một mình à? 
- Em cứ mong chị lấy được một người chồng tốt để mẹ có chỗ nương tựa. Còn em thì ở xa, nay đây mai đó, em chưa biết là sẽ làm gì để đỡ đần mẹ khi đau ốm. 
- Em cứ yên tâm. Những năm kháng chiến gian khổ thế là chúng mình vẫn qua được thì nay hoà bình rồi, có gì đáng ngại đâu. Chị sẽ thay em đảm nhiệm tất cả để em phục vụ Tổ Quốc. 
Không biết chị Huệ có nói với mẹ tôi điều gì không mà nét mặt của mẹ tôi rạng rỡ hẳn lên. Mẹ tôi săn sóc chị Dung chu đáo thân tình và đôi lúc bà còn xưng mẹ nữa. Còn Dung thì như đã hoàn toàn chiếm được mối thiện cảm của gia đình tôi. Với bản tính dịu dàng tự nhiên, chị đã nhanh chóng tự chủ trong mọi lúc chuyện trò và tham gia rất khéo vào nhưng việc nội trợ. 
Hôm sau cậu Đức đã về đúng hẹn. Cậu cũng chỉ đi một hình như kín đến giao nhiệm vụ cho chúng tôi trước đây. Mẹ tôi vui mừng đón tiếp cậu. Tôi cũng kín đáo báo cáo lại toàn bộ tình hình công việc của hai chúng tôi. Cật nghe chăm chú rồi vỗ vai tôi: 
- Không có gì đáng thất vọng. Cháu sẽ tới đích. 
Mẹ tôi trách cậu sao không đưa mợ và cháu về chơi cậu chỉ cười. Chờ lúc vắng cật mới nói nhỏ với mẹ tôi: 
- Tôi về thăm chị và cháu nhưng là có việc đây. Chưa phải là lúc có thì giờ đi chơi đâu mà chị vội trách không đưa vợ con về. 
- Việc gì thế cậu? 
- Quan trọng làm. Nghĩa đã nói chuyện gì với chị chưa? Chưa à?... Thế thì để tôi nói với chị vậy. 
- Cậu nói ngay đi có gì mà cứ úp úp, mở mở vậy. Có phải chuyện vợ con của cháu không? 
- Còn to lớn hơn nhiều... Bây giờ nó là quân của tôi, chị rõ chưa? Tôi sẽ giao cho nó một công việc rất quan trọng. Nhưng chuyện này chỉ có chị và tôi biết thôi nhé. 
- Vâng! - Mẹ tôi nhìn đam đăm vào đôi mắt của cậu. 
- Chị cũng chẳng cần biết công việc gì, nhưng nó sẽ phải đi xa và đi lâu. Tôi biết chị chỉ có nó là con trai. Chị đã chờ đợi nó đến mỏi mắt sau bao năm chiến tranh. Mới hòa bình có vài ngày nó vừa về thăm nhà, tôi lại đẩy nó đi, tôi sợ chị buồn... 
Cậu dừng lại nhìn mẹ tôi như để thăm dò. Nhưng mẹ tôi đã trả lời rắn rỏi: 
- Người mẹ nào mà chẳng thương nhớ con. Cháu lớn rồi chứ còn là đứa trẻ nữa đâu mà tôi phải buộc nó vào thắt lưng của mình! 
- Công việc này là hoàn toàn tự nguyện chị ạ. Cháu nó tự nguyện rồi, nhưng tôi lại muốn cả chị cũng tự nguyện nữa. Nếu chị không bằng lòng thì tôi sẽ hủy bỏ ngay kế hoạch, tất nhiên kế hoạch này là rất hay và rất quan trọng, ít người làm được.
- Nếu là điều rất hay, là điều rất quan trọng ít người làm được thì tại sao tôi lại phản đối? 
- Tôi nghĩ cái điều chị quan tâm nhất là công việc này có nguy hiểm không mà chị chưa muốn hỏi tôi. Nhưng tôi có thể trả lời ngay là: có nguy hiểm. Trong chiến tranh, cháu nó đã vượt qua nhột trận đánh năm mươi nhăm ngày đêm ở Điện Biên Phủ, một trận đánh lớn nhất trong cuộc kháng chiến, thì tôi thấy nó đã đi một chặng đường nguy hiểm hơn nhiều đoạn đường chán sắp vượt qua. Chỉ có điều là cháu sẽ không thể thư từ gì về cho chị, nhưng tôi, tôi là người chỉ huy nó, tôi hứa thỉnh thoảng đến nói riêng cho chị yên tâm. Chị thấy thế nào? 
- Cậu là em tôi, cậu coi nó như con, tôi tin là cậu chỉ dạy nó làm những điều tốt đẹp. Tôi rất yêu thương con tôi. Nó đi chiến đấu, tôi và chị nó ở nhà cũng hầm hố che giấu cán bộ, bộ đội, cũng nhiều lần vào sinh ra tử chống càn phá tề chứ có sợ gì hy sinh, gian khổ. Nếu nay con tôi được Tổ Quốc giao cho nhiệm vụ phải bước tiếp mà nó chẳng từ nan, thì tôi không bao giờ để nó nhụt chí. Tôi nói thế chắc cậu hiểu ý tôi chứ? 
- Vâng. Tôi hiểu chị. Không phải bây giờ mà ngay từ thời thơ ấu tôi cũng đã hiểu tấm lòng của chị đối với mọi người, với cái chung và cái riêng. Chỉ xin chị giữ kín việc này vì nó ảnh hưởng tới thành bại của công việc. Có ai hỏi chị cứ nói cháu đi bộ đội. Nó ở đâu, làm gì, chị không biết. Chị giao người cho chính phủ, ai muốn biết cứ đi mà hỏi chính phủ. 
- Cậu cứ yên tâm. Có bao giờ người mẹ lại muốn làm gì có hại cho con mình. 
Cậu nhìn ra sân thấy tôi và chị Dung ngồi nhặt rau với nhan, cậu chỉ cho mẹ tôi: 
- Chị thấy chưa , chúng nó dắt tay nhau vào nhiệm vụ, chị xem trên khuôn mặt chúng có một nét gì gọi là ưu tư ngần ngại không? 
Mẹ tôi kéo sát cậu lại gần và lỏi nhỏ: 
- Tôi thấy nó xoắn xuýt với nhau lắm. Không biết có nên cơm cháo gì không? 
- Bây giờ thì chưa, nhưng biết đâu được sau này... 
Câu hỏi của mẹ tôi lửng lơ và câu trả lời của cật Đức cũng lơ lửng khiến cho cả hai cùng bật cười vui ve. 
Tối hôm đó cậu Đức trao nhiệm vụ tiếp cho chúng tôi. Mục tiêu tiếp cận của chúng tôi là không thay đổi. Cậu trao cho chúng tôi một bức thư về Hà Nội lĩnh tiền, giấy tờ và hành trang để bay đi Sài gòn. Sớm hôm sau cật Đức tạm biệt gia đình chúng tôi. 
Khi bắt tay Dung và tôi, cậu dặn thêm: 
- Cậu chúc các cháu lên đường tới đích và có nhiều chiến công. Là người chỉ huy, cậu hy vọng có lúc được gặp mặt các cháu giữa trận tiền. Lời khuyên đầu tiên của cậu là: "Dũng cảm và cảnh giác". Lần chia tay tạm biệt này cậu cũng nhắc lại: "Cảnh giác và dũng cảm". 
Chúng tôi đứng nhìn theo bóng cậu dần khuất trên con đường quê. Ba ngày trôi đi nhanh chóng, tôi mới kịp đi thăm viếng vài người thân trong họ. Hai chị em tôi, hai mẹ con tôi lại phải chia tay nhau rồi. 
Chính lúc này mẹ tôi lại không khóc, vẻ mặt xúc động nhưng vui vẻ: 
- Mẹ sung sướng lắm, hạnh phúc lắm nếu như hai con cứ sóng đôi với nhau trên con đường công tác và cả trên đường đời nữa. Mẹ mong các con thành công và đừng bao giờ để mẹ phải mất đi niềm hy vọng lớn lao đó. 
Dung ôm chặt lấy mẹ, nước mắt giàn giụa: 
- Mẹ ơi, mẹ cứ tin rằng chúng con sẽ luôn luôn bên nhau như hôm nay đứng trước mặt mẹ và chị Huệ con. 
Chị Huệ tôi cũng ôm ghì lấy chúng tôi. 
- Không phải như hôm nay mà phải hơn nữa. Chị và mẹ đều mong thế đấy. 
Tôi quay lại bắt gặp cái nhìn của Dung và hai đứa đều đỏ mặt. 
Ôi tôi đã phải đóng một vai kịch thật khó khăn và đau khổ cho tôi biết nhường nào. Cả mẹ tôi và chị tôi đều chúng với tôi một ảo ảnh lộng lẫy Có ai biết là Dung đã có chồng có con đâu. Thật tội nghiệp cho nỗi mong đợi của mẹ tôi.

CHƯƠNG IV

CÁI ĐÍCH ĐẦU TIÊN
Chúng tôi trở về Hà Nội. Ngay tối đó chị Dung và tôi đến phố Hàm Long đưa lá thư tay của cậu Đức cho một người của ta. Đã có hai đồng chí chờ chúng tôi tại đây. Họ giao cho chúng tôi một số tiền Đông Dương, một bộ giấy tờ mới của Tổng ủy di cư cấp cùng hai va li nhỏ đựng mấy bộ quần áo. Các giấy tờ cũ được thu lại để hủy đi. Chúng tôi thuê xe về ngõ Chân Cầm. 
Sáng 15 tháng 8, chúng tôi đóng bộ rất diện. Chị Dung mặc quần lụa trắng, áo dài màu vàng nhạt, son phấn cẩn thận. Còn tôi, sơ mi cổ cứng, măng-sét đúp khuy vàng lấp lánh. Ca-vát sọc ba màu, quần len trô-pi-can xám, giày đánh xi bóng loáng. Lần đầu khoác những thứ này vào người tôi thấy lúng túng quá, chị Dung phải sửa sang, ngắm vuốt cho tôi. Bé Nguyệt nhìn thấy phải kêu lên: 
- Anh chị đi đâu mà mặc đẹp thế? Giống như cô dâu chú rể! 
- Anh chị đi dự đám cưới mà! 
Chúng tôi phải bịa chuyện cho bé khỏi thắc mắc. 
Tám giờ mười lăm theo đúng hẹn, một chiếc xe Rơ-nô 4CV lòng biển số 632 đỗ ở cửa. Tài xế đón chúng tôi lên xe. Ba phút sau chúng tôi đã đứng trước quầy bán vé của hãng Hàng không Việt Nam (Air VN). Người ban vé cho biết vé đã bán kín tất cả các chuyến bay tháng 8. Muốn đi, chúng tôi phải ghi tên chờ những chuyến đầu tháng 9. Chị Dung quyết định đến hãng Air France . Ở đây cũng đầy những người Pháp: công chức, nhà buôn, quân nhân cùng gia đình họ đang chờ đợi đến lượt mình. Tuyến Hà Nội - Sài gòn cũng ngừng bán vé. Họ cho biết vì tình hình chuyên vùng, tập kết thiếu phương tiện, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh đã trưng dụng nhiều chuyến bay nên trước mắt vé bán cho Pháp kiều, những bà me Tây, nhưng đám con lai cũng chưa đủ. 
Hai chúng tôi đang thất vọng thì thấy một sĩ quan không quân người Việt từ trong đi ra. Chị Dung đã nhanh nhẹn đón anh ta bằng một nụ cười rất lịch sự: 
- Thưa trung úy, trung úy có thể mua giúp chúng tôi hai tấm vé máy bay đi Sài Gòn được không ạ? 
Viên sĩ quan dừng lại và khi nhận ra trước mặt mình là một cô gái xinh đẹp thì anh ta tỏ ra rất niềm nở: 
- Thưa cô, cô muốn đi ngay ạ... Tình hình này tôi chưa dám hứa. Nhưng tôi sẽ cố gắng. 
Chúng tôi nán chờ và năm phút sau, viên trung úy đã kéo theo một đại úy không quân người Pháp đến trước mặt Dung. Viên đại úy cúi chào rất kiểu cách. Dung bắt đầu nói chuyện bằng tiếng Pháp với hai phi công và tôi đã phải ngạc nhiên về cách diễn đạt lưu loát của chị. 
- Thưa cô, cô đến hơi muộn, Hãng Air France chúng tôi đang đứng trước một đám hành khách khổng lồ. Lúc đầu chính phủ dự định dùng cả máy bay của không lực vào việc vận chuyển dân dụng. Nhưng cuối cùng thì không lực lại phải trưng dụng máy bay của hãng chúng tôi vào việc chuyển quân đội! Nếu cô vui lòng đi một mình thì tôi có thể thu xếp một chỗ duy nhất trong khoang hoa tiêu. 
- Xin cảm ơn đại úy, rất tiếc là chúng tôi lại có những hai người. Viên phi công Pháp đi rồi, viên trung úy người Việt vẫn tần ngần đứng lại vẻ mặt áy náy: 
- Hay là cô vui lòng đi trưóc. Tôi hứa là chuyến sau bay ra tôi sẽ đón nốt anh ấy. 
- Xin cảm ơn, chúng tôi không dám phiền trung úy nhiều. Chúng tôi sẽ kiếm được đôi vé bên Air Việt Nam vào một ngày gần đây. 
Viên phi công nói như thanh minh: 
- Tôi là người của không lực chứ không phải phi công của hãng Air France thành ra cũng không có mấy ảnh hưởng ở đây. Tôi được tăng phái cho V.A.T.1 (Hàng không vận tải V.N) một thời gian để chuyên chở hàng chư không phải chở người. Tôi rất buồn là không giúp được các bạn. 
- Không có gì - Dung cười vui vẻ - Tôi hoàn toàn hiểu trung úy. 
- Vào Sài Gòn tôi hy vọng sẽ được tiếp các bạn ở nhà riêng của tôi. 
- Chúng tôi rất vui lòng, nếu trung úy có nhã ý. 
Viên trung úy lấy trong túi ra một tấm danh thiếp. Anh ta ghi luôn lời mời và trao cho chúng tôi. Chúng tôi bát tay anh ta và ra xe đi về. 
- Không được vé máy bay nhưng kiếm ngay được cái danh thiếp - Dung mỉm cười thì thầm với tôi - ở một mảnh đất xa lạ thêm một người quen lắm lúc cũng được việc đấy anh ạ. 
Đường bay gặp khó khăn nên chúng tôi đã quyết định đi đường biển. Quanh quẩn ở Hà Nội lúc này không có lợi. Chị Dung hoạt động ở địa bàn này nhiều nên cũng phải đề phòng gặp lại những người quen biết. Đấy là chưa nói mạng lưới tình báo của Phòng Nhì Pháp, của cảnh sát ngụy từ khắp các địa bàn thu gọn về đây để chuẩn bị ra đi. Như một cái ao cạn, cá dồn xuống cả điểm sâu, mật độ rất đặc. Biết đâu chẳng có một tên nào đó chợt nhận ra đối thủ và tiếp tục theo hút? Và như vậy thì nhiệm vụ lâu dài của tôi sẽ bị ảnh hưởng. 
Hôm san chúng tôi lấy vé ô tô đi Hải Phòng sớm. Khi tạm biệt gia đình bác Bách, chúng tôi nói phải chuyển địa điểm theo yêu cầu công tác mới. Cả nhà cứ hẹn chúng tôi khi quân ta về tiếp quản Thủ đô thì nhớ đến Chân Cầm ăn mừng chiến thắng. 
Ra Bến Nứa, vì đồ đạc gọn nhẹ nên chúng tôi kiếm một cái tắc xi cũng chẳng khó khăn lắm. Nhiều gia đình ngụy quân, ngụy quyền, một số dân công giáo ở các tỉnh lân cận cũng kéo ra bến xe chờ đi Hải Phòng. Đồ đạc chất đống, quần áo nhem nhuốc, con cái lê la khóc mếu, họ chen lấn để kiếm một chỗ cho gia đình. Tình cảnh thất hỗn loạn và bi thảm. Đó mới là những ngày hạ tuần tháng 8. 
Xe chạy qua Hải Dương cặp mắt tư lự của Dung cứ chăm chăm nhìn ra ngoài. Phải chăng xe chúng tôi đang chạy qua những đường phố mà chị đã sống suốt thời thơ ấu hay giờ đây gia đình và đứa con thân yêu của chị đang ở đâu đây mà chị không thể giơ tay vẫy chào tạm biệt? Chắc Dung buồn lắm nhưng chị vẫn cố nén cảm xúc của mình. Khi xe sang bên kia cầu Lai Vu, tôi thấv chị bỏ kính xuống lấy khăn lau mắt. Tôi đặt bàn tay lên vai chị. Chị ngước nhìn tôi mỉm cười, cặp mắt đỏ hoe: 
- Gió quá anh ạ! - Chị nói lảng sang chuyện khác. 
Hải Phòng là thành phố xa lạ đối với tôi. Dung cũng quen biết vài người ở đây nhưng không phải là cơ sở của ta nên tốt nhất là chúng tôi tìm đến một quán trọ. Người lái xe đã đưa chúng tôi đến Khách sạn Đại Lục, một khách sạn vào loại sang nhất thành phố thời ấy. Các quán trọ nhỏ rẻ tiền đều nêm cứng những người di cư. 
Chúng tôi thuê một căn phòng trên gác ba. Người bồi phòng dẫn chúng tôi đến buồng 18. Sau khi biếu anh ta một số tiền "puốc-boa" nhỏ, chúng tôi hỏi thăm anh ta nơi bán vé tàu biển đi Sài Gòn. Anh ta vui vẻ chỉ dẫn cho chúng tôi và còn nói thêm cho chúng tôi một tin rất quan trọng. 
- Nếu cậu mợ không muốn mất tiền vé thì có thể xin đi nhờ tàu của Tổng ủy di cư. Chính phủ cho vé và cho cả ăn uống. 
Chúng tôi cảm ơn anh ta và chiều hôm đó ra ngay quảng trường nhà hát thành phố, nơi tập trung dân di cư đủ loại. Nhìn cách ăn mặc của họ, chúng tôi nhận định đây phần lớn là vợ con binh lính những viên chức phố huyện hay bọn tề điệp nông thôn... Dân "bự" không thèm đi tàu bố thí. Họ cần có tiện nghi, có kẻ hầu hạ. Nếu nhẹ họ đi bằng đường không. Số đông hơn, giàu có hơn, họ còn phải thu xếp tài sản. Khu vực ba trăm ngày chưa câu thúc họ về thời gian. Cách ăn mặc của chúng tôi vì thế hơi nổi bật so với đám dân di cư. Tôi nói với chị Dung là nên thay đổi trang phục cho thích hợp, nhưng chị lại nhận định khác: 
- Bọn viên chức dễ quan tâm đến những người sang trọng. Quan điểm giai cấp của họ là như vậy mà. Ta cứ xem sao. 
Chúng tôi đến văn phòng đăng ký dân tị nạn. Chị Dung đi thẳng đến một viên chức người Pháp xin hỏi về thể lệ xin di cư bằng đường biển. Viên chức này tỏ ra lịch sự giới thiệu chúng tôi với một viên chức người Việt ở buồng bên. Thế là cuộc điều đình của chúng tôi rất thuận lợi. 
- Thưa ông, chúng tôi có giấy của Tổng ủy di cư cấp ở Hà Nội. Gia đình chúng tôi đã đáp máy bay vào Sài Gòn trước. Chúng tôi bận thu xếp một số việc phải đi sau. Máy bay đã bán hết vé tháng 8 vì không lực trưng dụng để chuyển vận Pháp kiều. Nay chúng tôi muốn được đi bằng đường biển, mong quý ông làm ơn giúp đỡ cho. 
Chúng tôi đưa giấy của Tổng ủy ra và quả là có hiệu lực. Dân di tản ở đây cũng đang làm thủ tục để xin loại giấy này ở Ban Di cư Hải Phòng. Có giấy rồi chúng tôi chỉ việc ghi tên vào chuyến tàu sớm nhất. Viên chức người Việt này đã dành cho vợ chồng tôi ghế nằm ở ca-bin tầng ba của tàu Monte Carlo và dĩ nhiên là không mất tiền! 
Sau này tôi mới biết chiến dịch dụ dỗ cưỡng ép di cư này là do Hoa Kỳ đề xướng và đài thọ. Để tiến hành phá hoại lâu dài đất tước ta, Mỹ đã chi ra hàng chục triệu đô-la vào việc này. Các hãng vận tải đường biển của nhiều nước tranh nhau món thầu béo bở trên. Sau đó hãng vận tải Hàng không dân sự (CAT) do tướng Chenault chỉ huy cũng đã tham gia ào ạt vào chiến dịch vận chuyển này. CIA đã dùng máy bay của CAT chở ngược chiều những vũ khí phá hoại đặc nhiệm cho bọn phản động được gài lại để phá hoại miền Bắc. 
Đêm hôm đó chúng tôi yên tâm nghỉ lại Khách sạn Đại Lục. Vì là đôi vợ chồng, chúng tôi chỉ thuê một căn buồng và do đó cũng chỉ có một cái giường. Chúng tôi ngồi bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Bầu trời đầy sao. Gió từ biển thổi vào, hơi thu se lạnh. Chúng tôi bàn nhau không nói chuyện công việc ở khách sạn và đi nghỉ sớm để lấy lại sức sau một ngày mệt mỏi. Nhưng khi nhìn thấy một cái giường thì cả hai cùng cảm thấy tình thế gay cấn. 
- Dung ạ - Tôi chủ động nói trước - Hôm nay ta phải gác. Ta đem theo ít tiền, nhỡ có kẻ nào lẻn vào cuỗm mất thì biết xoay xở vào đâu. Dung đi ngủ đi mình gác trước cho. 
- Anh ngủ trước đi, em chưa buồn ngủ đâu, mười hai giờ em sẽ gọi anh thật đấy. 
- Mình khỏe hơn mà. Dung nghỉ trước đi. 
Biết là hai đứa đun đẩy thêm mất thì giờ, chị cởi bỏ áo dài treo lên mắc rồi lên buông màn. 
- Thế em đi nằm trước vậy. Sau hai tiếng ta lại đổi cho nhau anh nhé. 
Dung lên giường, tôi ngồi trên ghế. Chị nằm nghiêng, mái tóc đen chảy mềm trên gối. Qua tấm màn tuyn, da dẻ chị vẫn ánh lên một màu hồng. Hơi thở đều đều làm cho đường cong trên người chị phập phồng như những làn sóng gợn. Tôi cứ ngồi nghểu dáng như thế và cảm thấy đầu óc mình trong suốt như pha lê, không một cơn buồn ngủ nào có thể làm cho vẩn đục. 
Bỗng cặp mắt Dung từ từ mở ra. Chị ngồi dậy: 
- Anh Nghĩa ơi, vào đây... vào đây em bảo. 
Tôi ngoan ngoãn vén màn chui vào. Dung thì thầm vào tai tôi: 
- Chúng ta không phải chỉ sống với nhau một đêm nay mà có thể phải cả nhiều năm tháng. Liệu chúng ta có thể cử kẻ thức người ngủ mãi thế này được không? Cái kiểu cách đó làm sao tránh được sự ngạc nhiên của mọi người. Đó là chưa kể người ngồi đã vậy, người nằm cũng không sao ngủ được. Chúng ta phải lành quen với hoàn cảnh mới anh ạ. Anh hãy coi em như bạn trai... như em gái của anh. Anh nằm xuống đây, giường rộng lắm. Giữa chúng ta có một khoảng cách ngắn ngủi, nhưng em tin là chúng mình có đủ nghị lực để giữ gìn nó như giữ gìn một vật quý, nó sẽ trong suốt như tình bạn của hai anh em mình. Nằm xuống đi anh. Cửa em đóng kỹ rồi. Tiền bạc em giấu trong người cả, anh đừng lo! 
Dung nhìn tôi, mỉm cười khuyến khích tôi như dỗ dành một đứa trẻ. Tôi chấp hành lệnh của chị một cách ngoan ngoãn. 
- Anh cứ bỏ bộ đồ đi phố ra, không sợ mất đâu. 
Ánh mắt chị lóe lên một chút tinh nghịch. Tôi lại ngồi dậy lật đật cởi bỏ quần áo dài. Tôi nằm xuống, người run bắn lên. Tôi phải quấn cái chăn mỏng lên người và nằm im như chết. Tôi vừa cảm thấv ngượng ngùng nhưng cũng thấy mình thật hạnh phúc. Mình đã tạo được một niềm tin lớn lao cho người bạn gái. Mãi tôi mới thiếp đi. Giấc ngủ bập bềnh trôi nổi trong thênh mông... 
Khi tỉnh dậy, đã thấy Dung ngồi bên cạnh. Chị đặt bàn tay mềm mại lên vai tôi: 
- Thế nào, anh ngủ được chứ? 
Tôi mỉm cười thay cho câu trả lời. 
- Anh thấy không, mọi cái đều có thể rèn luyện được. Một vài đêm là quen đi thôi, việc gì phải gác sách lôi thôi cho thêm mệt! 
Chiếc tàu khách Monte Carlo có lẽ của hãng Messageries Maritimes buông neo bên cảng Hải Phòng thở khói hồng hộc. Những chiếc thang sắt được hạ xuống cố nuốt vợi đi đám người đông như kiến, mệt mỏi, xô đẩy, la thét ầm ĩ dưới cầu cảng. Những tay lính thủy cởi trần da đỏ như gà chọi, lông lá đầy ngực, râu ria xồm xoàm đứng khoanh tay trên boong ngắm nhìn đám dân di cư. Thỉnh thoảng vài tay lại cười rú lên khi những chiếc dùi cui của cảnh sát nện thẳng xuống đầu đám người chen lấn. Những trận đòn máu me đó cũng không sao lấy lại được trật tự. Tiếng khóc khét tiếng chửi bới, tiếng đổ vỡ vẫn vang lên. Một vài người bị dồn ra mép cầu và ngã xuống biển chơi vơi kêu cứu. Hầu như không ai chú ý đến số phận của họ. Sau đó họ đã xoay xở ra sao ai mà biết được. Trước tình cảnh đó, mấy chiếc thang đã được cần trục nhấc lên. Cuộc di tản ngừng lại. Sự thất vọng đã làm nguội đi cuộc xô đẩy. Cảnh sát dồn đám đông ô hợp đó vào sâu bên trong rồi mới tiếp tục điều khiển họ lên tàu. 
Hai chúng tôi cũng đứng chờ đợi trong cái đám hỗn độn đó. Ngay bên tôi, một người đàn bà bụng chửa đội một thúng nặng có lẽ là cả tài sản của gia đình chị. Tay chị ôm một đứa trẻ chừng một năm. Bíu theo chị còn ba đứa nưa. Con bé lớn nhất mới độ mười tuổi mà đã phải gánh hai cái tay nải. Hai đứa con trai thì đứa xách cái ấm, đứa khoác chiếc bị cói đựng lỉnh kỉnh những nồi, xoong bát đĩa, cơm nắm muối vừng, những mẩu bánh mì gặm dở, mấv con cá khô kéo theo một đàn ruồi. Cái gia đình nheo nhóc đó nhiều lúc bị chen đẩy mỗi người một nơi, khóc mếu gọi nhau lạc cả giọng. Chị Dung bảo tôi xách cả hai va li để Dung bế hộ người đàn bà đứa bé trên tay. Lúc đầu chị ta không dám đưa vì sợ người lạ bế mất con. Sau chúng tôi phải giải thích là sẽ đi liền trước mặt chị, chị ta mới yên tâm. Chúng tôi trôi theo dòng người rồi leo dần lên đến những bậc thang sắt cuối cùng của con tàu cao lênh khênh như ngôi nhà ba tầng. Lên đến boong Dung trao lại đứa trẻ cho người mẹ làm cho chị ta cảm động nước mắt vòng quanh: 
- Cháu cám ơn cậu mợ đã giúp đỡ mẹ con nhà cháu. 
- Một chút việc nhỏ có gì mà chị phải cảm ơn! 
Chúng tôi được chỉ dẫn đến một xen-luyn trên tầng ba. Ở đây thoáng mát, lịch sự, có giường nằm và ngay gần đấy là phòng ăn, quầy rượu, hành khách ở tầng ba không đông lắm. Hấn hết là các gia đình viên chức. Vài vị cố đạo, một số Tây đầm, những me Tây loại sang và nhưng nhà buôn người Hoa, người Ấn giàu có. Họ ra đi với những hành trang đắt tiền. Tầng hai và dưới hầm tàu lèn chặt những người phần lớn ở nông thôn, nghèo khó hơn hoặc ít thế lực hơn. Nhìn đống đồ đạc lộn xộn bày ra quanh người họ là có thể hiểu được hoàn cảnh của họ. 
Mười hai giờ hôm đó chuyến tàu di cư thứ hai khởi hành. Một hồi còi vang lên, con tàu từ từ chuyển mình rời bến. Nhiều người đứng trên boong khóc sướt mướt nhìn thành phố cảng xa dần. Một vài người già chắp tay hướng về dải đất liền, vái mồ mả ông cha, vái đền miếu, từ đường, vái miền quê chôn rau cắt rốn một cách cung kính. 
Người đàn bà chửa có bốn con nhỏ phân bua với mấy người xưng quanh: 
- Những như cháu thì cháu chẳng đi làm gì. Từ bé có bao giờ ra khỏi làng. Đi kiếm được miếng cơm thiên hạ đâu có dễ. Nhưng bố nó đánh giấy về bảo phải đi không thì Việt Minh giết chết. Bố cháu là lính com-màng-đô thì sợ thật đấy, chứ như mẹ con nhà cháu thì ai thèm giết cho phí đạn. 
- Bà này lẩn thẩn quá. Cần gì phải đạn mà sợ tốn. Một con dao là đủ. 
Người đàn ông góp chuyện chừng ngoài ba mươi tuổi. Đầu húi cua, mặt lưỡi cày, lông mày rậm, mắt lá răm, mũi hếch, môi thâm còn hàm răng thì bịt vàng lấp lánh. Thân hình hắn nhỏ bé nhưng mọi cử động có vẻ nhanh nhẹn. Ngồi bên hắn là mọt thiếu phụ đẫy đà, trắng trẻo mặc bộ đồ đen. Cổ tay chị ta đeo đầy vòng xuyến. Chị ta ngồi tựa vào một đống va-li cao ngất. Một đứa con gái sứt môi chừng ba tuổi quặt quẹo xanh rớt, hai tay giữ chằng chằng hai gói kẹo xanh đỏ mà vẫn mếu mạo vòi vĩnh mẹ. Người đàn bà thỉnh thoảng lại nghiến răng lại mắng con bằng những lời độc địa tục tĩu. 
Thấy tôi chú ý đến họ, một ông già thì thầm vào tai tôi: 
- Ông ấy là trưởng đồn cảnh sát phố Mía đấy. Của ấy không đi thì chẳng cần đến Việt Minh mà chính anh em họ hàng ruột thịt nó cũng sẽ giết nó. Người đàn bà này trước là em dâu nó. Nó dựng tội đẩy em đi tù rồi cướp vợ em nên trời trừng phạt nó. Ba lần đẻ mới được một con bé dị tật. Nghe nói hắn bị bệnh giang mai. 
- Sao cụ biết tường tận về ông ta như vậy? 
- Cả huyện tôi ai mà không biết thằng sếp Tẩu. 
- Cụ có bà con quen biết gì trong Nam không? 
- Chẳng có ai thân thích, nhưng năm một nghìn chín trăm ba mươi hai tôi đã vào trong đó. Dễ làm ăn lắm cậu ạ. Ở ngoài này thì cũng chẳng ai động đến mình vì suốt đời có gây thù gây oán với ai. Chỉ vì nghèo, ruộng đất chẳng có nên tôi tính đi tìm chỗ rộng đất. Nhân dịp họ cho đi tàu không mất tiền nên tôi kéo gia đình đi thôi. 
- Cụ dự tính sẽ vào định cư ở vùng nào? 
- Tôi muốn vào Thủ Dầu Một, tôi có nghề cạo mủ cao su, không biết họ có cho mình được đúng ý nguyện hay không. 
Trên sàn tàu đã phô bày ra tất cả hoàn cảnh riêng tư của đám người di tản. Kẻ có tội ác, kẻ phản bội, bọn lưu manh đĩ điếm, người bị lừa bịp, hù dọa. Cũng có người ra đi chỉ vì mưu kế sinh nhai đơn thuần. Và tôi thấy tự hào là trong cái sự phân cực đầy cặn bã rác rưởi ít nhất cũng còn có hai chúng tôi là những hạt giống tốt cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. 
Sáng 22 tháng 8, tàu Monte Carlo cập bến cảng Sài Gòn. Hai chúng tôi xuống tàu và theo bước đoàn người mệt mỏi vì năm ngày đêm say sóng, đến trại đón tiếp những người Bắc di cư. Đã có những sọt bánh mì bố thí chia cho từng người. Chúng tôi nhận những của đó để giảm bớt chi tiêu vì trước mắt chia biết dựa vào đâu. Những người giàu có, họ đi thẳng tới khách sạn hoặc có bà con, xe cộ đón sẵn. Đến đây tôi mới biết là đám dân di cư sẽ được đưa tới Hố Nai chứ không phải ở trong thành phố. Người ta gọi tên từng người qua loa phóng thanh để lên xe ô tô tải. Hai chúng tôi bàn nhau lui lại. Chúng tôi đến xin các viên chức điều hành ở bến cảng cho phép chúng tôi dừng lại ở thành phố để tìm người nhà. Họ đưa cho chúng tôi luộc thảnh giấy: 
- Xin ông bà khai cho địa chỉ của thân nhân. 
Nhìn tờ khai của tôi, người điều hành nhún vai: 
- Địa chỉ ở khách sạn đâu có cố định. Nếu họ rời khỏi khách sạn rồi thì sao? 
- Thưa ông, trường hợp đó thì tôi sẽ đi đăng báo nhắn tin và sau đó chúng tôi sẽ về ngay Hố Nai để trình diện và chờ đợi. Chỉ dám phiền ông cấp cho một giấy phép ở lại thành phố bảy mươi hai giờ đồng hồ là đủ ạ. 
Cuối cùng thì chúng tôi cũng được cấp một tờ giấy đúng như lời thỉnh cầu. Việc đầu tiên chúng tôi tìm thuê một căn buồng nhỏ ở một nhà trọ rẻ tiền. Tôi lo công việc tìm kiếm kéo dài sẽ ngốn hết khoản tiền ít ỏi mang theo. Chị Dung đã làm tôi yên lòng. 
- Ngoài tiền cậu cho, em cũng mang theo một ít tiền riêng và đồ trang sức. Nếu cần bán đi chúng ta có thể trang trải được một thời gian. 
Khách sạn Phúc Ninh là nhột ngôi lầu ba tầng cũ kỹ. Tầng dưới là tiệm ăn, còn hai tầng trên cho thuê. Những căn buồng ngăn nhỏ như những xà lim nhà tù với những bộ đồ trải giường hoen ố và bẩn thiu, những ngọn đèn mờ nhạt vì bụi bặm. Người ta có thể thuê từng giờ đến cả tháng. Khách trọ hầu hết là những người nghèo khó, nghiện ngập, những tay giang hồ lỡ bước, những cặp tình nhân hành lạc vụng trộm trong chốc lát. Tóm lại có thể nói nơi đây là cái đáy của xã hội Sài Gòn. Đêm đó căn buồng bé nhỏ của chúng tôi cũng phải chịu tác động của bao nhiêu âm thanh xa lạ từ bốn bề dội lại. Tiếng cười rũ rượi của nhưng cô gái từ ban công bên cạnh vọng sang. Tiếng khóc nức nở của một người đàn bà ở buồng trong tiếng lè nhè của mấy người say rượu ngoài hành lang. Tiếng cãi lộn tục tằn của "dân bẹp"1 (Những người nghiện thuốc phiện) từ lầu trên vọng xuống. Tiếng âm nhạc ầm ĩ của những bài hát A-rập ở quầy rượu phòng dưới vọng lên và đôi lúc cả tiếng còi ré lên dữ dội của cảnh sát. Nằm trên đất liền mà cái ảo giác bập bềnh nôn nao trên biển cả vẫn còn thâm nhiễm trong hệ thần kinh của tôi làm cho giấc ngủ nổi chìm trong mệt thỏi. 
Sáng hôm sau tôi tìm số điện thoại và gọi cho anh tôi. Tôi đã được người bên kia đầu dây trả lời về luật sư Phan Quang Ân đã rời Khách sạn Europe từ thứ hai tuần trước và không để lại địa chỉ. Thế là lại bị mất hút. Tôi rất buồn. Liệu anh đã đến làm việc Tòa án tối cao chưa, hay còn mắc bận vì chuyện nhà chuyện cửa. Dù niềm hy vọng chỉ còn mờ nhạt như ngôi sao trên nền trời buổi sáng, chúng tôi cũng vẫn phải theo đuổi. Tôi quyết định đến thẳng Tòa án tối cao. Đường xá chưa quen nên việc đầu tiên là phải tìm mua một tấm bản đồ thành phố. Tôi hỏi thăm người chủ tiệm sách rồi đánh dấu từng vị trí trên bản đồ. Đem về phòng trọ, tôi và Dung cùng nhau học thuộc những đại lộ chính. Dung trông nhà, còn tôi sẽ bắt đầu một cuộc hành quân thực tập. Tôi đã đến được Tòa án một mình không cần hỏi ai. Hàng chục xe ô tô du lịch đỗ thẳng hàng trong sân. Cổng có lính canh làm cho công thự này mang thêm vẻ thâm nghiêm. 
Hầu như mọi người từ trong Tòa án đi ra đều dùng xe riêng nên không tiện chặn họ lại để hỏi. Hơn nữa, cách phục sức trang trọng của những người này cùng với vẻ mặt nghiêm nghị lạnh lùng của họ làm cho tôi rụt rè. Tôi đứng vơ vẩn ở đây chừng nửa tiếng mới thấv một ông già gày gò, tóc bạc đeo kính trắng, xách một cái cặp mỏng từ trong tiền sảnh đi ra. Tôi vội tiến lại trước mặt ông cúi mình chào lễ phép: 
- Thưa ông, tôi muốn tìm luật sư Phan Quang Ân ở Hà Nội mới vào trong này. Nếu ông biết xin ông làm ơn chỉ giúp tôi chỗ ông Ân làm việc. 
- Anh cần ông Ân có việc gì? - ông nói giọng Bắc làm cho tôi thêm hy vọng. 
- Dạ, một việc riêng thôi ạ. 
- Nếu anh cần đến các việc tố tụng, bào chữa hoặc thảo các văn bản có liên quan đến pháp lý thì tôi sẵn sàng giúp anh. Xin tự giới thiệu tôi là lật sư Trương Công Nghị. Ông Ân không nhận những việc này đâu. Ông ta chuyển sang hoạt động chính trị là chủ yếu. 
- Xin cảm ơn luật sư. Rất tiếc tôi không có việc gì liên quan đến pháp lý (lẽ ra phải nói rất may...). Tôi là người bà con với ông Ân. Chúng tôi mới di cư vào, tôi chỉ cần nhờ luật sư cho biết địa chỉ của ông ấy thôi ạ. 
Ông già nhún vai mỉm cười: 
- Anh có tin là người bà con ấy vui mừng được gặp anh không?... Ông ta vừa khai trương một Văn phòng lớn ở đường Phan Đình Phùng. Số nhà tôi không nhớ rõ nhưng anh có thể dễ dàng nhìn thấy tấm biển đồng khắc "Ván phòng - Tiến sĩ luật khoa Phan Quang Ân" ở khoảng gần ngã tư với phố Hai Bà Trương thì phải. 
- Xin cảm ơn luật sư nhiều. 
- Không có gì. Chúc anh may mắn. 
Tôi nhìn mãi theo bóng ông già cao lêu đêu, chậm chạp đếm từng bước trên vỉa hè rợp bóng cây. 
Tấm bản đồ giúp tôi nhanh chóng tới được ngã tư Phan Đình Phùng - Hai Bà Trưng. Tôi tìm ngay ra tấm biển dông. Nó gắn bên cửa chính của một tòa lầu ba tầng. Mặt tiền ngôi nhà không lớn lắm, nhưng được xây dựng hiện đại và kiên cố. Tôi mạnh dạn bước lên thềm nhìn vào trong cửa kính thấy càn phòng rất rộng trải thảm. Giữa phòng kê bộ ghế xa-lông bọc da. Sát tường bên trong là một bàn giấy rộng, bên trên treo một bức tranh phong cảnh lớn: Hoàng hôn Cửa Bắc. Bên phải bàn giấy là một tủ kính cao gần đến trần nhà, trên ngăn bày những bộ sách rất lớn, bìa bọc da, gáy in chừ vàng. Đó là những bộ luật cổ kim đông tây của nhiều quốc gia, bộ Đại Bách khoa toàn thư cùng những tác phẩm của nhiều nhà luật học nổi tiếng. Góc tường phía cửa sang buồng bên có chiếc bàn nhỏ dành cho người thư ký đánh máy. 
Văn phòng vắng ngắt, tôi bấm chuông. Cánh cửa vào buồng trong mở ra. Một cô gái xuất hiện, dung nhan của cô như in lại hình ảnh của chị dâu tôi cách đây mười năm. Điều đó làm cho tôi khẳng định đây là cô em chị Lệ Ngọc. Cô mở cửa ngoài và gật đầu chào tôi rất kiểu cách: 
- Xin mời ông vào. 
- Thưa cô, tôi xin được gặp luật sư Phan Quang Ân - Tôi vẫn đứng ở cửa. 
- Xin mời ông ngồi chờ cho một phút. Tôi đi mời luật sư. 
Cô gái đi vào buồng trong và chẳng bao lâu anh tôi xuất hiện trên khuôn cửa. Tám năm xa cách nhưng không có thay đổi gì lớn trên khuôn mặt anh. Tôi gật đầu chào và im lặng xem anh có nhận nổi tôi không. Cặp mắt anh dán vào tôi và một vẻ sửng sốt bùng lên... 
- Anh không nhận nổi ra em à? Nghĩa đây mà. 
- Trời! Em tôi! - Anh ôm chầm lấy tôi. 
Tôi cảm thấy sức mạnh đôi cánh tay to béo của anh ghì lấy vai mình. 
- Em từ đâu đến đây với anh thế ? 
- Từ quê hương anh ạ. Em đã đi tìm anh khắp Hà Nội, em lần theo những lời chỉ bảo của nhiều người mà tới được đây. 
- Thế dì và Huệ đâu? 
- Mẹ em và chị Huệ vẫn ở quê. 
- Ôi, thế em đi có một mình à? 
- Có một người nữa anh ạ... Dung, vợ em! - Tôi thấy ngượng vì đây là lần đầu tiên tôi nói mệnh đề này. 
- Thế cô Dung đâu? - Còn nằm ngoài khách sạn ạ. Em đi tìm anh chưa có hy vọng gặp ngay nên sợ kéo cả hai đi thêm tốn tiền xe. 
- Thôi được, em hãy vào trong nhà rồi ta sẽ đi đón cô ấy sau. 
Tôi theo anh vào trong, qua một vườn cây xanh đầy hoa đến một biệt thự hai tầng xinh xắn và rất lộng lẫy vì hàng trăm chậu cảnh đầy hương sắc. 
- Anh chị ở trong này. Bên ngoài là văn phòng làm việc. 
Vào đến cửa ngôi nhà trong, tôi thấy anh tôi gọi: 
- Mình ơi! Lệ Ngọc ơi. Ra đây, ra đây nhanh lên. 
Chị Ngọc và cô gái hồi nãy cùng bước ra. Tôi gật đầu chào chị. 
- Có nhận ra ai đây không? - Anh tôi hỏi. 
Chị nhìn tôi từ đầu đến chân rồi mỉm cười lắc đầu: 
- Em chịu không nhớ ra! 
- Nghĩa! Em trai anh đấy mà. 
- Trời, em Nghĩa! - Vẻ ngạc nhiên trùm lên khuôn mặt chị - Trong trí nhớ của chị, em chỉ là một chú bé gảy gò trắng xanh của cái năm bốn mươi lăm đen tối. Thế mà bây giờ em lớn thế này. Lạ quá ! Thế anh Ân có nhận nổi ra chú ấy ngay không? 
- Ra ngay chứ? - Anh tôi khẳng định - Vẫn là chú bé gầy gò trắng xanh năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm phóng đại ra gấp đôi thôi, chứ có gì mà không nhận ra. Với lại ruột thịt bao giờ cũng có một linh cảm đặ biệt. 
- Em thấy anh ấy hỏi lật sư Ân, em cứ tưởng là khách hàng! - Cô gái cũng thêm vào câu chuyện của chúng tôi 
- Ba đâu nhỉ? 
- Ba đang có khách - Chị cười - Các cụ đang xoa1 (Đánh mạt chược). Thôi để lên chào cụ sau. Em sẽ sắp đặt phòng cho chú Nghĩa nghỉ ngơi tắm rửa, sau đó ta sẽ nói chuyện nhiều. Đi xa chắc Nghĩa mệt lắm, em nhỉ. 
- Dạ, em cũng bình thường thôi ạ. 
- Còn phải đi đón cô ấy nứa chứ. 
- Đón ai? 
- Cô Dung, vợ chú Nghĩa còn đang ở ngoài khách sạn. 
- Thế mà chị không biết. Kim, em gọi lái xe cho chị để đưa chú Nghĩa ra khách sạn đón cô Dung. 
- Để em đi cho khỏi phải gọi - Cô gái có nụ cười rất hồn nhiên. 
- Ừ hay Kim đi với Nghĩa cũng được. 
Kim ra hiệu cho tôi theo ra phía ga-ra. Một cái Peugeot 203 đen bóng. Kim mở cửa cho tôi vào. Cô nổ máy và bấm còi. Một người đàn ông trong nhà chạy ra lễ phép. 
- Thưa cô để tôi lái ạ. 
- Anh mở cửa ga-ra giúp tôi. Tôi lái lấy. 
Người tài xế nhanh nhẹn làm theo. Chiếc xe nhẹ nhàng lan bánh chửi ra cổng. Chị nghỉ ở Khách sạn Palace hay Continental ạ. 
- Dạ ở Khách sạn Phúc Ninh - Tôi cảml thấy thảm hại khi phải đọc tên cái khách sạn tồi tàn đó. 
- Em mới vào cũng chưa thuộc đường lắm nhưng không sao. Có đi có quen. 
Tôi nhìn qna tấm bản đồ và hướng dẫn cô lái đến địa điểm rất chính xác. 
Lúc đó đã mười một giờ. Ngồi chờ tôi từ sáng chắc Dung cũng nóng ruột. Thấy tôi trở về cùng với một cô gái ăn mặc sang trọng thì chị đã biết là tôi gặp may rồi. Tôi giới thiệu hai người với nhau: 
- Đây là cô Kim, em ruột chị Ân. Còn Dung... nhà tôi đấy? 
Hai người bắt tay nhau thân thiện. 
- Rất sung sướng được quen biết Kim. 
- Em cũng vậy. Anh chị trả phòng thuê cho khách sạn đi. Em đưa anh chị về kẻo cả nhà mong. 
Tất cả công việc thanh toán, thu dọn và trang điểm được làm trong vòng mười lăm phút. Chúng tôi ra xe với hai chiếc va-li nhẹ tênh. 
Khi xe chui vào cổng tôi đã thấy cả nhà ngồi trên những chiếc ghế mây ở ngoài vườn. Anh tôi ra tận xe đón và dẫn chúng tôi đến trước mạt ông bố vợ. Chúng tôi cúi chào cụ. 
- Thưa ba, đây là hai vợ chồng em Nghĩa con. 
- Xin chào ! - Ông cụ Cự Phách đứng dậy, dáng hơi lom khom. Chỉ mười năm thôi mà ông đã già đi nhiều - Hồi tôi về thăm dưới quê, chú ấy còn bé tí tẹo. Cách nhau một cuộc chiến tranh mà anh em còn được hội ngộ là đại phúc đấy! 
Ông hỏi thăm gia đình tôi qua loa rồi quay sang nhắc các con. 
- Thôi đưa cô chú ấy về phòng nghỉ, tắm rửa đôi chút rồi còn đi ăn cơm. 
Chúng tôi được đưa lên một căn buồng khá rộng ở tầng hai ngôi nhà ngoài. Căn buồng đầy đủ tiện nghi. Có một giường, một đi-văng, có tủ và bàn gương trang điểm. Có giá sách và bàn ghế. Có cả toa-lét riêng. Anh tôi chỉ bao tỉ mỉ cho chúng tôi cạch xếp đặt cuộc sống khi giúp chúng tôi xếp quần áo từ va-li vào tủ, anh thân mật bảo tôi: 
- Các em nghèo quá. Cần phải may mặc thêm cho đầy đủ. Anh sẽ bảo chị Ngọc lo liệu chu đáo cho các em. 
Chúng tôi thay nhau tắm rửa sạch sẽ và cảm thấy thoải mái sau một chuyến đi dài. 
Mười hai giờ chúng tôi được mời xuống buồng ăn. Gia đình ngồi quanh một chiếc bàn bầu dục lớn. Ông Cự Phách ngồi ở phía đầu. Đối diện với ông là cô Kim. Anh chị tôi ngồi bên phải ông cụ. Chúng tôi ngồi bên trái. Bưa ăn thật thịnh soạn. Không hiển vì buổi đầu hội ngộ của chúng tôi mà bữa cơm trở nên đặc biệt hay cuộc sống bình thường của gia đình này là như vậy? Anh tôi mở một chai Martel rót ra những chiếc cốc pha lê. Trừ ông già, mọi người đều đứng dậy nâng cốc chúc mừng cuộc tái ngộ của anh em tôi sau gần mười năm bặt tin nhau. Tôi chưa bao giờ làm quen với những bữa tiệc tùng long trọng nên tuy chỉ có vài người trong nhà mà tôi vẫn lóng ngóng. Chị Dung thì tỏ ra thành thạo và duyên dáng hơn tôi. Mặc dù Dung chưa được điểm trang đầy đủ, ăn mặc những bổ đồ sang trọng và đúng kiểu nhưng Dung vẫn khá nổi trong bàn tiệc. Chị Lê Ngọc vốn cũng là một người đàn bà đẹp, nhưng ở tuổi ngoài ba mươi, chị cũng không còn giữ được cái vẻ rực rỡ của mười năm về trước. Cô Kim cũng rất xinh, nhưng cô đã để cho nước da lệ thuộc quá nhiều vào son phấn. 
- Bây giờ em có thể vừa án vừa kể sơ lược cho cả nhà nghe về những gì đã xảy ra với em trong suốt cuộc chiến - Chị Lệ Ngọc nhắc tôi. 
Tôi đã diễn theo đúng kịch bản dựng sẵn. Tuy nhiên vai của tôi gần giống hệt cuộc đời thực của tôi nên tôi kể rất lưu loát và nhiều đoạn tôi cảm thấy khá xúc động. Nó cũng dễ thuyết phục người nghe vì tính chân thực của nó. Khi tôi nói đến đoạn tôi đi lính và chiến đấu ở Điện Biên Phủ thì chị Lệ Ngọc vội hỏi xen vào: 
- Em đi lính dù hay lính thuộc địa? 
- Lính Việt Minh, bộ đội Cụ Hồ chị ạ. 
Tôi thấy nét mật chị dâu tôi tái đi. Chị thốt lên vẻ kinh hoàng: 
- Trời ơi ! Thế chú đã là Việt Minh Cộng sản? 
- Vâng, mới là Việt Minh chưa chưa phải là Cộng sản. 
Ông Cự phách cười vang lên rất vui vẻ: 
- Xin chào người lính từ bên kia chiến tuyến? - Ông già vỗ vào vai tôi vẻ thân mật - Thế tại sao anh vẫn tìm đường vào đây với chúng tôi trong lúc các anh đang được thế giới gọi là những người chiến thắng? 
- Thưa bác, cháu vẫn là người chiến thắng chứ ạ. Làm sao có thể biến đổi được lịch sử, xoay chuyển được quá khứ? 
- Anh có tự hào về chiến tích đó không? 
- Cháu rất tự hào. Một người lính trong đời anh ta được thắng một trận như Điện Biên hay Đống Đa, Waterloo, Xích-bích, Xta-lin-gơ-rát hay Normandie thì cũng đáng tự hào lắm chứ ạ. 
- Bravo! Như vậy mới đáng gọi là một người lính! - Cô Kim ủng hộ ý kiến của tôi - Nhưng em trông anh Nghĩa chẳng giống người lính chút nào, nhất là một người lính Việt Minh! 
- Chắc là lần đầu tiên cô trông thấy một người lính Việt Minh bằng xuống bằng thịt? 
- Đúng vậy. Với em, họ chỉ mới xuất hiện trên báo chí, trên màn ảnh. Trông họ khát máu hơn, tàn ác hơn và xin lỗi... họ ngu xuẩn hơn nhiều. 
- Họ là sản phẩm của những bộ óc như vậy mà! 
Hình như câu nói mang hai nghĩa của tôi quá mạnh có thể làm cho tôi hiện rõ nguyên hình nên Dung vào câu chuyện: 
- Anh Nghĩa đến hôm nay đã thay đổi ngoại hình đi nhiều lắm. Từ bỏ núi rừng, bỏ bộ đồ ka ki, trở về đồng bằng ăn mặc khác đi nên chẳng thể giống những người trong phim nữa. 
- Xin lỗi cho tôi hỏi người lính Việt Minh một câu - ông già quay lại nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt vui vẻ - anh nói quá khứ là không thể lay chuyển, lịch sử là bất biến. Thế tại sao anh lại từ bỏ quá khứ, tách mình khỏi lịch sử mà anh thấy đáng tự hào? 
- Dạ thưa bác, cháu chưa bao giờ và sẽ không bao giờ từ bỏ quá khứ, phủ nhận vinh quang của lịch sử. Cháu chỉ chưa chấp nhận tương lai người ta gán cho chết mà thôi. Cháu sẽ mãi mãi cho rằng kháng chiến chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp là một sứ mạng thiêng liêng của mỗi người Việt Nam . Chỉ có Việt Minh là có khả năng tập hợp được sức mạnh của dân tộc để chống Pháp. Một số chính đảng khác cũng đề ra cương lĩnh chống thực dân giành độc lập, nhưng trên thực tế họ không làm nổi điều này. Nhưng Việt Minh không phải chỉ có mục đích tối thượng chống giặc ngoài là thực dân Pháp mà họ còn chống cả nhiều người Việt Nam mà họ gọi là thù trong. Theo học thuyết đấu tranh giai cấp của họ thì cháu và hàng ngàn cán bộ Việt Minh khác xuất thân từ giai cấp địa chủ, tư sản hay tầng lớp quan lại trước đây đền được liệt vào đối tượng đấu tranh của một cuộc cách mạng long trời lở đất đã và sẽ diễn ra trên toàn bộ miền Bắc. Cháu không chấp nhận cảnh nồi da nấu thịt này. Vì vậy cháu đã chia tay với những người Cộng sản, một cuộc chia tay thầm lặng nhưng quyết liệt. Tương lai sẽ là một mất một còn. 
- Chắc họ chỉ xử tội những người không đứng trong đội ngũ của họ thôi chứ? - Anh tôi hỏi. 
- Dạ, không trừ một ai - Dung cũng tham gia vào cuộc nói chuyện - Trong lúc kháng chiến, cần có đông người trong đội ngũ thì họ cũng có một sách lược lôi kéo. Nghĩa là có lỏng tay chút ít những về nguyên tắc tư tưởng thì vẫn là thành kiến giai cấp, kỳ thị thành phần phi vô sản. Nhưng nay có chiến thắng, có hòa bình rồi hết "giặc ngoài", họ chẳng có gì phải chiếu cố, phải lôi kéo "thù trong" nữa. Hết thú rồi, người đi săn tính chuyện "thịt chó và chim mồi". 
Câu chuyện từ trong bữa ăn lan sang bàn nước và kéo dài ra tận nơi hóng mát ngoài vườn cây. Qua nét mặt tôi cảm thấy rõ một lối lo lắng bao trùm lên bà chị dâu tôi. Trong ngôi nhà yên ấm và vui vẻ này bỗng nhiên xuất hiện một con người có gốc gác Việt Minh, tham gia kháng chiến có thể làm suy đồi cái vốn chính trị mà từ lâu chị đã cố gắng vun vén, mua bán cho chồng. Anh tôi thì vẫn bình thản, còn ông Cự Phách thì lại tỏ ra thú vị như một người hiếu kỳ được thấy tận mắt một dị nhân. 
Chiều hôm đó, khi chỉ có hai anh em ngồi với nhau, anh tôi mới hỏi về những dự định tương lai của tôi. Tôi hỏi: 
- Nhưng nay chiến tranh đã làm gián đoạn sự học hành của em. Tuy vậy, đến nay em vẫn muốn được tiếp tục đi học. Không có mảnh bằng trong tay khó mà lập nghiệp nổi ở cái chốn đua tranh này. 
- Thế em sẽ bắt đầu từ đâu? 
- Từ đệ nhị chuyên khoa anh ạ. Em định gắng sức trong hai năm để có bằng tú tài. 
- Em có chí như vậy là rất tốt. Tuổi em cũng đã lớn. Em phải đi học tư và thi tự do. Anh sẽ giúp đỡ em thêm. 
- Em xin anh chị giúp đỡ cho chúng em một chỗ ở. Vợ em sẽ đi làm để kiếm sống. Dung có thể xin bán hàng cho một cửa tiệm nào đó. Cũng có thể làm thợ kim hoàn vì gia đình vợ em có nghề này từ lâu đời nên con cái đều có tay nghề cả. 
- Chuyện này thì em đừng lo. Anh chị sẽ thu xếp cho em đầy đủ. Ngày hàn vi mấy anh em sống với nhau thiếu thốn vất vả dì còn lo liệu được cho anh em mình nữa là. Công lao dì to lớn lắm. Bây giờ em đã vào đây, anh sẽ có trách nhiệm gây dựng cho em. Anh chỉ mong em chăm chỉ tu thân thì thế nào em cũng thành đạt. Em không được bạn bè đi lại với những người ở phía bên kia nữa. Chẳng may có người vẫn dính líu đến quá khứ, họ sẽ lôi kéo xô đẩy em đến những chỗ không hay. Điều đó chẳng những có hại cho em mà còn ảnh hưởng xấu đến gia đình này nữa. 
- Xin anh yên tâm, mọi việc sẽ tốt đẹp. 
- Thế em đã mang những giấy tờ gì mà vào được Sài Gòn? 
- Chỉ có giấy của Tổng ủy di cư cấp thôi ạ - Tôi đưa các thứ cho anh xem. 
- Thế thì mai em cứ quay lại Hố Nai để khai báo toàn bộ, làm đầy đủ thủ tục xin định cư với anh chị ở Sài Gòn. Như vậy chúng ta mới được đảm bảo đầy đủ về mặt pháp lý. 
Tôi vâng lời anh và hứa sẽ đi thu xếp đầy đủ những giấy tờ này. Chúng tôi đến Hố Nai, tìm cơ quan tiếp nhận dân di cư. 
Thủ tục xin giấy tờ của chị Dung không có chuyện gì khó khăn. Với tôi thì vấn đề phiền toái hơn. Sau khi nghe tôi kể về nguồn gốc của mình, những nhân viên phụ trách về định cư đã xác định trường hợp này phải chuyển sang cơ quan chiêu hồi. Tôi năn nỉ xin được coi như mọi người dân di cư khác nhưng vô hiệu. Thế là Dung phải lấy giấy tờ về trước một mình.
Viên thiến tá phụ trách chiêu hồi đón tiếp tôi một cách hoan hỉ. 
Năm ngày sau, có lẽ nóng ruột về tình hình "cải tạo" của tôi nên Dung đã xin phép lên thăm tôi. Cô Kim đã tình nguyện lái xe đưa Dung đi. Khi chiếc Pellgeot 203 bóng lộn đỗ ngoài cửa trại rồi hai cô gái xinh đẹp và sang trọng xin vào thăm tôi thì cả trại nhốn nháo hẳn lên. Đến ngay vị trại trưởng và một số lính gác cũng nhìn tôi bằng cặp mắt đặc biệt. Khi nghe tôi kể anh ruột tôi là tiến sĩ luật khoa Phan Quang Ân, nguyên Phó Chánh án Tòa Thượng thẩm Hà Nội thì viên trại trưởng tỏ ra rất vui vẻ. Trong các bài giảng sau đó y đã nhiều lần nhắc đến tên tôi như là điển hình của những người khôn ngoan, có học thức đã biết chọn cho tương lai của mình một con đường thênh thang đầy hy vọng! 
Sau một tuần nhồi sọ, tôi đã được cấp đủ giấy tờ hợp pháp để về định cư ở Sài Gòn. Anh chị tôi đã thu xếp cho tôi một tương lai gần đúng như yêll cầu của tôi. Tôi sẽ đi học tại một trường tư, còn Dung sẽ là thư ký cho Văn phòng bào chữa của anh tôi. Lúc đầu chị Dung cũng không hình dung nổi công việc này ra sao. Nhưng khi bàn tính kỹ, chúng tôi thấy rằng trong hoàn cảnh trước mắt cách thu xếp đó là hợp lý và hợp tình nữa. Dung chỉ học thêm đánh máy, còn cung cách làm việc thì anh tôi chỉ bảo dần. Là người trong nhà những yếu kém ban đầu có thể được châm chước dễ dàng hơn. 
Chỉ một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy rằng công việc tố tụng bào chữa ở đây không nhiều lắm. Những người lui tới gặp gỡ anh tôi hầu hết là những chính khách. Họ ít nói về luật pháp mà thường là đàm đạo về chính trị. Ở văn phòng này có thể đặt được một cái "nhiệt biểu" về chính trị. Những nguồn thông tin thu lượm được nếu biết phân tích thì cũng có nhũng chi tiết giúp cho công tác của chúng tôi, ngoài giờ làm việc, Dung vẫn có những khe hở dành cho công tác của mình. 
Tôi chưa được Dung giao cho việc gì. Nhiệm vụ chính lúc đó là học tập. Tôi là học sinh lớn nhất mấy lớp đệ nhị của tư thục Phan Châu Trình cả về tuổi tác lẫn tầm vóc. Khi xin học tôi đã phải nói thực với các thày là tôi theo học ở "hậu phương" nên không có chứng chỉ học lực. Các môn tự nhiên tôi có thể theo kịp, nhưng về sinh ngữ cả Anh van và Pháp vàn tôi đều rất yếu. Tôi hứa sẽ cố gắng để đuổi kịp. Vì là trường tư nên các thày cũng có phần châm chước cho. Tôi sẽ học dự bị một thời gian. Nến theo được nhà trường sẽ chấp nhận chính thức. 
Ý thức được nhiệm vụ lâu dài, tôi lao vào việc học tập chăm chỉ say sưa khác thường. Trong tôi đã mang sẵn tính di truyền của cha tôi ngày xưa nên sự miệt mài "học gạo" không làm cho tôi mệt mỏi. Anh tôi cũng rất hài lòng. 
- Đáng tiếc là em phải đứng lại trong mấy nạm chiến tranh. Nếu không em đã đi đến tận đâu rồi! 
Buổi tối, anh tôi thường dành cho tôi nửa tiếng. Anh rất nghiêm túc trong việc này. Ngay cả những hôm có khách anh cũng kiếu lỗi và nhờ chị tôi tiếp hộ. Anh xem bài vở và chỉ bảo cho tôi giống hệt như ngày chúng tôi còn ở bên chùa Am. Có điều đáng ngạc nhiên là anh tôi chẳng quên một môn gì, kể cả những môn toán, lý, hóa... mà anh đã bỏ hàng chục năm không ngó tới. Tôi cảm thấy một không khí gia đình êm ấm của tuổi thơ sống lại. Chính những lúc đó anh tôi cũng hồn nhiên hơn, chân thật hiền lành và cởi mở hơn. Ở trong môi trường này tôi học sinh ngữ cũng rất thuận lợi. Anh chị tôi hay nói tiếng Pháp. Cô Kim nói cả tiếng pháp, tiếng Anh đều tốt. Dung cũng nói được trong sinh hoạt, tuy chị không thể trực tiếp giảng cho tôi. Tôi có nhiều cơ hội để nghe, để trả lời hoặc hỏi lại. Chẳng mấy chốc tôi đã thấy vững tâm trước những giờ sinh ngữ. Dần dần tôi đã vượt lên và thoát khỏi cái danh vị đội sổ. 
Chúng tôi đã gia nhập cuộc sống xa lạ này một cách trót lọt êm ả.

CHƯƠNG V

ANH TÔI
Khi cuộc sống đã trở thành bình thường rồi thì những câu chuyện trong bữa cơm của gia đình không còn sôi nổi nứa. Ông Cự Phách cũng không hỏi gì về những chuyện hậu phương, chuyện cộng sản. Xen lẫn với những chuyện vui như mua ô tô mới, chuyện vui liên hoan, chuyện nghỉ cuối tuần, chuyện Đại Thế Giới... cũng có cả những chuyện đáng buồn. Thỉnh thoảng tôi lại thấy chị Lệ Ngọc than thở về bao nhiêu bất động sản ở Hà Nội thế là mất trắng. Vào Sài Gòn cái gì cũng phải mua, cũng tốn phí mà vẫn thiếu thốn chứ không như hồi còn ở ngoài Bắc. Mối tâm sự đó được nhắc đi nhắc lại nhiễn lần đã làm cho "môi trường tinh thần" của bữa ăn bị ô nhiễm. Đã có lúc ông Cự Phách phải gạt đi. 
- Ôi tiếc làm gì cho nó già người đi. Của thiên lại trả địa thôi mà. Mình có phải đổ mồ hôi, đổ máu cho những bất động sản đó đâu mà phải tiếc. Bất động sản này đẻ ra bất động sản khác. Mình kéo nhau ra đi thì chúng nó ở lại. Cuộc đời như một canh bạc thôi. Có được có thua, có vay có trả... 
- Ba cứ nói thế chứ, của đau con xót. Đang từ biển phải vào hồ, ai mà không thấy khó chịu. 
- Tôi đã để cho ai thiếu thốn cái gì nào? Ngoài kia biệt thự, vào đây cũng biệt thự. Ngoài kia xe hơi, vào đây cũng xe hơi, lại còn mới hơn, tốt hơn nữa chứ! Quân Pháp bại trận chứ tôi, tôi chưa bại trận đâu! 
Thực ra ông già chưa hiểu ý con gái mình muốn nói gì. Còn chúng tôi thì chúng tôi hiểu. Sự chăm sóc của anh tôi đối với chúng tôi có thể làm cho chị không vừa lòng chăng? Hay lợi tức hàng tháng thấp hơn các khoản chi nên đã làm cho chị lo lắng? 
Sau này chúng tôi mới biết ràng gia đình không coi trọng khoản thu ở Văn phòng này. Nguồn chủ yếu của họ là ở lợi tức Ngân hàng. Lãi mẹ đẻ lãi con, tài sản của ông Cự Phách cứ mỗi ngày một lớn ra trong lúc ông chỉ việc nghỉ ngơi xoa mạt chược. 
Thu nhập ở Vàn phòng luật sư chỉ là món vặt vãnh so với toàn bộ lợi tức của gia đình thì tạo sao họ lại phải mở cửa và duy trì hoạt động cho thêm bận việc. Tôi không hỏi và anh tôi cũng chưa bao giờ giải thích điền này, nhưng theo tôi đoán thì nguyên nhân là ở chỗ gia đình muốn anh tôi trở thành một trí thức có tên tuổi. Văn phòng là nơi giao tiếp với nhiều tầng lớp xã hội. Nó là cục nam châm thu hút nhiều bạn bè đại diện cho nhiều xu hướng chính trị khác nhau. 
Sự quen biết sẽ tạo cho anh tôi những cơ hội tốt để giành giật những tham vọng còn đang ấp ủ. 
Anh tôi là một con người thiếu bản lĩnh. Có một cái gì giống với cha tôi thuở xưa: Chăm chỉ, cần cù, dễ yên phận. Cũng có lúc cha tôi được lôi cuốn vào phong trào Cần Vương chống Pháp, nhưng khi bị khủng bố là ông bỏ cuộc ngay và yên phận đến chết với chức quan bé nhỏ đó. Xưa kia anh tôi cũng mong mỏi học hành thành đạt để có được một phương tiện sinh sống, được mát mặt. Anh đã gặp được một cơ hội hiếm hoi và thay mắn là lấy được con nhà giàu. Từ đó số phận của anh tôi được trôi đi một cách êm đềm theo cái bánh lái của gia đình nhà vợ. Ông Cự Phách là một người khôn ngoan trong kinh doanh. Ông rất táo bạo thậm chí liều lĩnh trong nhưng áp phe lớn. Nhưng trong đời sống chính trị, ông là người thận trọng và rất cơ hội. Ông ta có một câu phương ngôn nghiêm khắc để chỉ đạo mọi hành động của mình, đó là: "Người làm ra của chứ của không làm ra người". "Sẩy chân trên thị trường thì cùng lắm là thua lỗ, mất của nhưng vẫn còn có cơ hội kiếm lại được Nhưng sảy chân trên chính trường thì dễ bị tù đày, thậm chí cụt cả cái đầu". "Thượng đế sình ra con người lại quên chế tạo cho nó đồ phụ tùng, vì vậy không nên mạo hiểm". Hồi cách mạng tháng Tám, ông đã làm nguội đi bầu nhiệt huyết của anh tôi một cách nhanh chóng. Chị dâu tôi cũng thừa hưởng của ông cái gien di truyền này. Chị cũng có nhiều tham vọng nhưng nhát gan. Những năm đầu chiến tranh chị để chồng "trùm chăn" chỉ có mình chị ló ra buôn bán. Ngay lúc đó công việc kinh doanh cũng đã gắn chặt với chính trị và người ta đã rút ra rằng không có ngành kinh doanh nào lại phát bằng "kinh doanh quyền lực". Chủ nghĩa thực dân mới nhảy vào, cái lợi ích của hai mặt phối hợp: Kinh tế và chính trị lại thống nhất hơn bao giờ hết. Người nào nắm được chức vụ lớn trong chính quyền thì đồng thời họ cũng cầm chắc những vụ áp phe kinh tế lớn mà không một chuyện kinh doanh đơn thuần nào có thể so sánh với nó về mặt lợi tức cao. 
Dần dần chính trường cũng lôi cuốn, kích thích chị Ngọc tôi như thị trường vậy. Chị đã cố thu xếp cho anh tôi nhột cái vốn chính trị nhỏ nhỏ trên nguyên tắc là phải an toàn. Việc đầu tiên phải là một trí thức có danh tiếng. Một nhà hướng dẫn dư luận và thời cuộc. Một người dễ được các chính đảng lôi kéo để làm cân bằng thế đứng trên trường chính trị. Một người không có những vụ bê bối, những vết nhơ trong đời tất. Và tất nhiên phải là một nglrời chống Cộng nhiệt thành. Tất cả những hoạt động chính trị của anh tôi đều phải dựa vào những mẫu mực trên mà phấn đấu. 
Khi rời Hà Nội vào Sài Gòn để bước vào chính trường hậu chiến, anh tôi đã làm một cú áp phe chính trị nổi tiếng. Đó là việc thuận ghi tên nịnh vào danh sách Trung đoàn tử thủ cố đô. Ai cũng biết cái trung đoàn ma đó chỉ là một trò hề, nhưng bản thân sự ghi tên lại là một lời tuyên thệ đứng vào đội ngũ cực đoan nhất chống lại cách mạng. Ghi xong là thu vội hành lý bay hôn vào Sài Gòn, hang ổ kiên cố nhất thì có mất quái gì đâu mà lại được tiếng là người quốc gia chủ nghĩa, người yêu nước, một chiến sĩ chống lại mọi thế lực nô dịch, cả cộng sản lẫn thực dân, cả phương Đông lẫn phương Tây! 
Nói anh tôi là một người hoàn toàn độc lập không đảng phái thì cũng không đúng. Đã có lần anh tôi đứng ra thành lập một đảng hẳn hoi. Một đảng có tên tuổi, có tuyên ngôn, có cương lĩnh, có phù hiệu và cũng được trình tòa như ai! 
Đó là vào năm 1952 khi bọn Pháp cho phép Thành phố Hà Nội được bầu ra một hội đồng dân biểu. Một cử chỉ dân chủ hào hiệp, và hiếm hoi đó đã làm nức lòng nhiều chính khách. Muốn màng tới cái miếng đỉnh chung thì phải có vây cánh, có liên minh. Lúc đó đã có nhiều chính đảng lâu năm hoạt động trên sân khấu chính trị như Đại Việt, Phục quốc, Việt Nam Quốc dân đảng, Xã hội quốc gia v.v. Anh tôi có thể xin gia nhập một đảng nào đấy tùy thích với điều kiện là sẽ được đứng vào liên danh tranh cửa của đảng đó thì chắc là cũng không khó khăn làm. Nhưng kiểm lại một loạt danh sách thì chẳng thấy đảng nào còn có được một bộ mặt sạch sẽ. Anh tôi chủ trương thành lập một đảng mới toanh. Đương nhiên anh tôi sẽ có vai trò của người lãnh tụ, người cha đẻ. Và thế là anh đi lục tìm lại trong ký ức những bạn bè cũ xem có những ai mải mê chính trị để chiêu mộ. 
Người đầu tiên anh tôi bái yết là kỹ sư hóa học Nguyễn Đăng Thạc, ông này có học nhưng nhà nghèo. Ông ta cũng đã tiến thân nhiều nơi nhưng chưa gặp vận. Ông đang xoay trần ra làm tương làm xì dầu, trong một ngôi nhà cổ với cái sân đầy chum, vại, chậu, bình, gáo phễu... ở gần dốc Hàng Than. Thấy ông bạn giàu có bỗng nhiên phóng ô tô hạ cố tới thăm thì cảm động quá suýt vấp vào mấy cái bình cổ cong đựng toàn nấm mốc. 
- Anh mạnh khỏe chứ? 
- Cảm ơn, tôi mạnh khỏe lắm! 
Hai ông bạn ôm chầm lấy nhau sung sướng. Một cảm thấy mùi nước hoa "Rêve d'or". Một thì thấy mùi mốc tương muốn hắt hơi. Chỉ sau mười lăm phút thuyết giáo, anh tôi đã làm cho nhà bác học ngã lòng và xin tự nguyện bỏ tất cả nấm, mốc, chum, vại, xì dầu, xáng xấu để gia nhập đảng ngõ hầu cứu vớt quốc dân, cứu vớt nền sản xuất nước chấm đang đứng trước nguy cơ phá sản. 
Người thứ hai anh tôi đến gặp là võ sư Hoàng Bá Lâm, bạn học từ hồi "đệ tam". Lâu học dốt nhưng đánh nhau giỏi. Anh ta bỏ học và ít lâu sau thấy xuất hiện trên võ đài không hiểu thuộc loại ruồi hay loại lông. Anh tôi ít chú ý đến kỹ thuật thể thao nhưng lại rất quan tâm đến sự nổi tiếng. Và có một lần bỗng nhiên vợ Lâm đến gặp anh tôi nhờ bào chữa cho một vụ ngộ sát. Lâm đã quá tay nện chết một võ sinh và bị kiện là do tình địch. Vì tình bạn cũ anh tôi đã trổ hết tài nghệ ra để cứu bạn trước vành móng ngựa. Từ đó lai người rất thân nhau không phải vì ý hợp tâm đồng mà do ơn cứu mạng. 
- Anh muốn tôi gia nhập đảng gì? 
- Đảng của tôi! Hiện nay chưa có tên. Nếu thành lập được ta sẽ bàn cách đặt tên. Vì vội cho kịp lập liên danh tranh cử nên tôi chưa dự kiến. 
- Đảng của anh thì được. Anh cứ ghi tên tôi vào... À nhưng còn chuyện đóng góp ra sao?... 
- Góp gì? 
- Cổ phần... 
- À, đóng nguyệt liễm để gây quỹ phải không? Thì cũng chẳng đáng là bao. Lúc đầu kể ra cũng cần một số tiền đấy, kẻ ít người nhiều tuỳ tâm góp lại. Vấn đề sẽ đƯợc bàn ở đại hội. 
Thế là dụ được hai người rồi. 
Anh tôi chợt nảy ra một ý: Trong đảng cần phải có những người thuộc phái đẹp. Trong lịch sử chính trị thế giới, nhiều người đàn bà đẹp đã làm nên chuyện. Nhưng cái bà vợ ông Hậu này thì không thể gọi là phái đẹp được. Tóc lông bò, mắt sâu, gò má cao, mũi hếch, răng đen, người gầy và khô như que củi, vào đảng thêm xấu cả đảng! Anh tôi nghĩ ngay đến Eugénie Lê Mộng Vân, người bạn tình thời niên thiếu. Gọi là cô nhưng Mộng Vân đã ngoài ba mươi tuổi, chưa chồng, tài sắc vang bóng một thời. Người ta gọi cô là Mộng Vân nữ sĩ. Cô dịch thơ cổ điển Pháp như của Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé, Pan Verlaine... Báo chí gọi cô là nữ ký giả vì Mộng Vân đã từng theo chân quân viễn chinh trong các cuộc hành quân để viết các bài phóng sự ca ngợi nhưng con người lùng như Langlais, Bigeard... Khi anh bàn chuyện lôi kéo cô vào đảng của mình với vợ thì chị Ngọc tôi giãy nảy lên. 
- Đó là một người đàn bà đáng sợ. Nghe nói nó là nhân tình của cả tướng Salan, lẫn đại tá Brohon. 
- Cô ta chưa chồng, đó là quyền của cô ta! 
- Nghe nói nó cũng là người của sở mật thám. 
- Càng hay. Đảng của ta mới thành lập. Ta đang cần thanh thế. 
Cuối cùng chị tôi phải chấp nhận việc mời Mộng Vân tham gia đảng. Khi anh tôi đến tuyên truyền, Mộng Vân đòi xem toàn bộ danh sách những thành viên đã chiêu mộ. Cô kênh kiệu tuyên bố. Chỉ gia nhập đảng với mật danh Bạch Trà. Anh tôi đang cần tên tuổi của cô nay cô không cho phép nêu tên thì là một thiệt thòi lớn cho đảng. Nhưng nghĩ đến lợi ích lâu dài, anh tôi cũng đồng ý. Sau mấy ngày chạy vạy, anh lôi kéo được mười hai người, nhưng điểm mặt thì ít danh nhân quá Muốn cho đảng có thanh thế hơn, anh tôi quyết định đi mời thêm các bác sĩ Hoàng Cơ Bảo. Ông ta có dáng người béo lùn giống con Nhất Sách. Đầu ông hói, mắt đeo kính cận, mặt đỏ như say rượu. Vốn là thày thuốc chữa bệnh kín, ông đã bỏ nghề y theo đuổi công danh bằng con đường hoạt động chính trị. Ông ta đã tham gia nhiều đảng và cũng đã từng làm lãnh tụ nhiều đảng. Ông là một nhà hùng biện cho nên tất cả những lần lừa thày phản bạn đều được ông lý giải một cách thỏa đáng trong các buồi đăng đàn hay viết bài trên báo chí. Khi anh tôi mời ông gia nhập đảng của mình thì điều kiện nhất thiết ông đưa ra là ông phải làm lãnh tụ. Anh tôi không hài lòng. Như thế chẳng hóa ra cốc mò có xơi! Nhưng vị bác sĩ này cứ khăng khăng là mình quen làm lãnh tụ mất rồi. 
- Anh làm lãnh tụ thì phải do đại hội bầu, đó là nguyên tắc dân chủ, bình đẳng! - Anh tôi nhấn mạnh. 
- Phải có ngoại lệ với những người sáng lập chứ. Nếu tôi gia nhập một đảng mới thì có được lãnh đạo, tôi mới bõ tham gia. 
Cuối cùng thì cuộc mật đàm cũng đi đến một giải pháp dung hòa. Ông Bảo sẽ là Chủ tịch còn anh tôi sẽ là Tổng thư ký! 
Đại hội đảng họp ở Khách sạn Grand Palais. Có mười bốn đại biểu. Trước khi tụ tập, anh tôi đã phải đến đăng ký thủ tục ở Sở Cảnh sát. ông "còm" liếc qua cái danh sách của một chính đảng chỉ có mười bốn đảng viên thì lão không khỏi nhếch mép cười khinh bỉ: 
- May mà qua được con số mười ba. 
Đầu tiên đại hội phải bàn việc đặt tên đảng. Người nêu ra tên Cộng hòa, nhưng nhiều vị lại sợ làm mếch lòng Cựu hoàng đế Bảo Đại. Lấy tên đảng Xã hội thì nghe có vẻ thiên tả. Cuối cùng đại hội quyết định gọi là đảng Tự do. Về tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh tuyên ngôn, anh tôi cũng đã sao chép được một bản dự thảo khá dài gồm hơn mười chương thì phải. Đảng là của giai cấp nào thì khó mà biết được. Đảng tranh đấu quyền lợi cho những người cần lao, những thương nhân, những nông gia nhưng cũng bảo vệ quyền lợi cho những nhà điền chủ, nhà tư sản, binh lính và trí thức. Tóm lại là đảng của những người Việt Nam yêu nước yêu tự do. 
Cương lĩnh của đảng cũng nêu lên phải xóa bỏ chế độ thực dân giành độc lập, xây dựng nền dân chủ đưa đất nước đến phồn vinh, vàn minh ngang hàng với các quốc gia tân tiến trên thế giới.Cũng có một chương chống cộng rất mạnh mẽ để biểu lộ tư tưởng chính trị chủ đạo của đảng. 
Tuyên ngôn tranh cử của đảng tập trung vào ba điểm: Nếu liên danh của đảng đắc cử thì đảng sẽ ra sức khuếch trương kỹ nghệ, giảm thuế đầu tư ba mươi phần trăm. Bảo đảm tám giờ làm việc một ngày. Tăng lương hai mươi phần trăm cho công chức. Đảng chủ trương xóa bỏ Nhà Tiền, một di sản xấu xa của chủ nghĩa thực dân nam chính giữa Thủ đô ngàn năm văn vật. Điểm cuối cùng là đảng đòi tăng thuế mãi dâm lên bốn mươi phần trăm để dần dần thu hẹp tệ nạn này ngõ hầu cứu lấy sự tồn vong của dân tộc. 
Tất cả cuộc tranh lận dồn vào cái điểm cuối cùng này. Thật là gay cấn. 
- Nến ta đòi tăng thuế mãi dâm tức là ta tự sát - Nữ sĩ Mộng Vân đại diện quyền lợi cho phái đẹp nhấn nạnh - Con số gái điếm chính thức có thể hiện nay đã là bảy mươi ngàn. Cộng với ít nhất bảy mươi ngàn cảm tình viên của họ nữa là ta mất béng đi một trăm năm mươi ngàn phiếu bầu! Xin quý vị hãy tỉnh táo trong quyết định này. 
- Nhưng ta lại kiếm được số phiếu của những người có giáo dục của các bà vợ đức hạnh! 
Hai quan điểm đó cuối cùng cũng đi đến một sự dung hòa. Nghĩa là sẽ kiểm tra chặt chẽ để chữa bệnh cho gái điếm nhằm tránh những bệnh hoạn làm tai hại cho sự tồn vong của giống nòi. Thế là vừa lòng gái điếm, cũng là vừa lòng khách làng chơi. Mục kết thúc là tìm biểu tượng cho đảng Tự do. Các đảng lớn như đảng Cộng hòa, đảng Dân chủ bên Mỹ đều có biểu tượng cả. Cộng hòa lấy con voi Dân chủ là con lừa. Thế thì đảng Tự do lấy con gì cho có ý nghĩa. Con bò thì dốt. Con trâu, con ngựa sợ các đảng đối lập sẽ khoét sân vào cái ý tay sai nô lệ. Con chó thì thông minh, bên Tây coi chó là bạn (nhất trẻ con, nhì đàn bà, ba chó, thứ tư mới đến đàn ông), nhưng ở nước ta, cái xứ lạc hậu này, con chó gắn liền với cái sự ăn tục, mất vệ sinh! Chỉ còn con lợn, con dê, con gà được đem ra tuyển chọn. Một cuộc tranh luận nữa lại nổ ra. Cũng may mà có được bộ óc thông minh của vị lãnh tụ tài năng: Bác sĩ Hoàng Cơ Bảo. Ông đưa ra một con vật không có trong thực tế làm biểu tượng: Con rồng. Rồng tượng trưng cho sức mạnh vĩ đại, cho vương quyền, cho thần quyền và cả cho mỹ học. Nó lại là một hình tượng rất phương Đông, rất dân tộc. Chỉ vài lời phân tích là đại hội nhất trí được ngay. Đúng là ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo! Hội nghị vỗ tay như pháo! 
Để đảm bảo cho đảng có sức mạnh tài chính chi tiêu cho tranh cử đại hội tổ chức quyên góp kẻ ít người nhiều tùy tâm cúng vào quỹ đảng. Mười ba đại biểu đã hưởng ứng. Chị dâu tôi trong lúc cao hứng đã tuyên bố: Nếu đảng mà sống được, chị tôi sẽ chẳng tiếc gì mà không hiến cả ngôi nhà ba tầng ở phố Hàng Kèn cho đảng làm trụ sở. Riêng bác sĩ Hoàng Cơ Bảo thì chẳng thèm góp xu nào. Ông ta cho sự gia nhập của mình, và lĩnh trọng trách chèo lái đã đáng bạc triệu rồi. 
Cuộc vận động tuyển cử của đảng được tổ chức khá linh đình. Đảng in hàng vạn truyền đơn, áp-phích thuê máy bay tung xuống thành phố. Dùng loa phóng thanh cỡ lớn từ trên phi cơ chõ xuống kêu gọi cử tri dồn phiến cho "liên danh Con Rồng". Thuê hàng giờ phát thanh của đài Con Nhạn để quảng cáo. Lễ ra mắt ứng cử viên của đảng được tổ chức ở rạp Quảng Lạc. Sau ba bài diễn văn hùng hồn của bác sĩ Hoàng Cơ Bảo, luật sư Phan Quang Ân và kỹ sư Nguyễn Đăng Thạc có diễn tích Lương Sơn Bạc không mất tiền rất chi là vui vẻ Đảng tin vào sự thành công của các phương tiện cổ động tân kỳ. Một bữa dạ tiệc được mở để chúc mừng các nghị sĩ tương lai. Rượu sâm banh nổ lốp bốp. Ngà ngà say, ngài chủ tịch thì thầm to nhỏ cùng đồng đảng. 
- Sắp tới sẽ phải có quốc hội lập hiến. Đảng Tự do chúng ta sẽ ra tranh cử. Nếu thắng quốc trưởng sẽ chỉ định tôi đứng ra thành lập nội các. ông Ân sẽ là Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng ngoại giao. Ông Thạc tổng trưởng kỹ nghệ. Ông Hậu Tổng trưởng tài chính. Mộng Văn nữ sĩ Tổng trưởng y tế. Võ sư Hoàng Bá Lâm, Tổng trưởng quốc phòng... 
- Đúng. - Ông Lâm cướp lời - Tôi là môn đồ Giuđô của võ sư Nhật Bổn Kamasu, là học trò quyền Anh của bốc-xơ Chapuy. Không ai làm Tổng trưởng quốc phòng giỏi hơn tôi! 
Chưa có quốc hội, chưa có chính phủ mà họ đã lo chuyện chia ghế. Viễn tưởng thật rực rỡ. Nhưng khốn khổ cho họ, ngay cuộc tuyển cừ thành phố đã thất bại. Nghe nói phe đối lập không thèm vận động cử tri. Họ dồn quỹ vận động cho những kẻ kiểm phiếu thế là họ tháng cử dễ dàng. Cũng có người nói: Các ông nghị đã được Tây lựa trước rồi, bầu cho vui chuyện thôi Đảng Tự do thất vọng và mâu thuẫn. Họ cãi vã nhau đến thức độ không thể hàn gắn được. Họ tuyên bố giải tán đảng và theo thủ tục phải thanh toán ngân quỹ. Ông Hậu khăng khăng đòi lại khoản tiền quyên góp (ông đóng nhiều hơn một số người). Thực ra những món chi quá sang của đảng cho tiệc tùng và vận động đã vượt quá số đống góp. Chị dâu tôi phải bù vào giúp đảng. Nhưng ông Hậu không biết điều. Ông muốn bán cả ngôi nhà Hàng Kèn mà chị tôi hứa ủng hộ đảng để chia nhau (?) vì ông coi đây là bất động sản của đảng. Ông ta còn dọa nếu không giải quyết ông sẽ kiện trước tòa. Võ sư Hoàng Bả Lâm phải nhứ nhứ quả đấm vào mũi ông ta và dọa: "Nếu còn đả động đến ngân quỹ một lần nữa thì sẽ được "miệng nhai cốt trầu, đầu xơi tào phở ngay!". Không ngờ cái biện pháp dọa đánh cho mồm hộc máu, đầu phọt óc hơi du côn của ông Lâm lại hữu hiệu tức khắc. Các đại biểu im lặng rồi lần lượt cáo lui. 
Từ sau cái vụ buôn bán chính trị thua lỗ đó, anh tôi đã thay đổi lập trường quyết định sẽ là một chính khách độc lập đứng ngoài đảng phái cho đến chết. 
Biết được câu chuyện trên là vì tôi đã ngồi đọc lại những tập báo cũ năm 1952 còn lưu trữ trong thư viện. Có thể các phóng viên đã mô tả các sự kiện một cách méo mó rồi phóng đại hoặc thu nhỏ đi. Để khôi phục lại bức chân dung của anh tôi, tôi đã tước bỏ những tình tiết vô lý, và tôi cũng được cô Kim xác nhận lại một số sự kiện mà cô còn nhớ được.

(Xem tiếp Chương 6)